Thứ Tư, 12 tháng 12, 2018

Tuân Thủ Giới Luật - Bhikkhu Bodhi

Tuân Thủ Giới Luật 

 A Discipline of Sobriety

Bhikkhu Bodhi

Minh Hạnh Việt dịch

Mấy tháng trước tôi đến tham dự một khóa nhập thất tu khổ hạnh hai tuần ở một đất nước đời sống nghèo nhưng có sự tôn trọng cuộc sống khổ hạnh, thiền định của các tu sĩ. Mỗi ngày, một nhóm các thí chủ khác nhau mang đến tu viện thực phẩm cúng dường, thường từ các thị trấn và làng mạc xa xôi. Họ đến vào tối hôm trước, chuẩn bị bữa ăn sáng được gửi đến nhà ăn của tu viện, và sau đó, vào buổi trước ngọ, thực phẩm cúng dường đến các vị tu sĩ khi họ đi khất thực. Sau khi các nhà sư khác đã thu thập thức ăn của họ và quay trở lại, vị trưởng lão ở lại để làm lễ Quy Y và Giới Luật cho những người thí chủ, giảng một bài pháp ngắn, và thực hiện sự cống hiến công đức.

Một ngày trong thời gian nhập thất của tôi, tôi nhận thấy một số nam thí chủ có hành vi khá lạ lùng gần khu nhà của vị trụ trì. Tôi hỏi bạn tôi, một nhà sư người Đức, về hành vi kỳ lạ của họ, và lời giải thích của vị Sư này làm tôi choáng váng. "Họ say rượu,". Nhưng đó không phải là tất cả. Sư tiếp tục: "Điều duy nhất bất thường về sự việc hôm qua là những người đàn ông đã say rượu sớm hơn trong ngày. Thường hành vi của họ tốt cho đến khi các nghi thức được làm xong, sau đó họ mới say túy lúy."

Sự tiết lộ khủng khiếp này đã dấy lên trong tôi cả sự phẫn nộ và buồn phiền. Phẫn nộ, vì với quan niệm rằng những người tự coi mình là Phật tử nên giữ giới cấm cơ bản nhất ngay trong các khu vực thiêng liêng của một tu viện - thực vậy là một trong số ít ở trong đất nước Sri Lanka, nơi ngọn lửa gian truân vẫn đang bừng cháy. Buồn phiền, bởi vì đây chỉ là bằng chứng mới nhất mà tôi đã thấy về căn bệnh nghiện rượu đã thâm nhập sâu vào ruột của quốc gia này, nơi mà di sản Phật giáo đã ăn sâu hơn hai nghìn năm. Nhưng Sri Lanka không phải là quốc gia Phật giáo duy nhất bị chìm sâu bởi làn sóng tiêu thụ rượu. Làn sóng đã lan tràn qua quá nhiều thế giới Phật giáo, với Thái Lan và Nhật Bản xếp hạng cao đặc biệt trong danh sách ảnh hưởng nguy hại.

Lý do cho xu hướng đáng ngại này rất khác nhau. Một là sự giàu có đang gia tăng, điều mà những người giàu với rượu nhập khẩu cao cấp là một biểu tượng có thể nhìn thấy của sự giàu có và quyền lực. Một lý do khác là tầng lớp trung lưu đang phát triển, mà bắt chước một cách mù quáng các thói thường của xã hội phương Tây. Một lý do khác nữa là sự nghèo đói, điều này khiến thói uống rượu thành một lối thoát dễ dàng khỏi khuôn mặt nghiệt ngã của thực tế hàng ngày. Nhưng bất kể lý do gì, nó còn hơn cả nỗi đau buồn và lo lắng của chúng tôi rằng rượu là giải quyết. Nó là sự ăn mòn công trình xây dựng tinh tế các giá trị Phật giáo trên mọi cấp độ - cá nhân, gia đình và xã hội.

Đức Phật đã ban hành ngũ giới cho những người Phật tử như là sự tuân thủ tối thiểu về đạo đức : không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh dục lạc, không nói dối, và không uống rượu và các chất say. Ngài không tự ý đặt ra những giới luật này hoặc ra ngoài tuân thủ các phong tục cổ xưa, với kiến ​​thức toàn diện của mình, Ngài thấy hiểu , những đường lối dẫn đến phúc lợi và hạnh phúc của chúng ta và những đường lối dẫn đến tổn hại và đau khổ. Giới luật thứ năm, cần được nhấn mạnh, không phải là một cam kết chỉ để tránh tình trạng say xỉn hoặc sự tàn phá quá mức của rượu. Nó không cần thiết phải tuyệt đối nhịn hẳn. Theo giới luật này, Đức Phật chỉ ra rằng Ngài đã hiểu rõ bản chất tinh tế, độc hại của nghiện ngập. Người nghiện rượu hiếm khi là nạn nhân của cơn đột ngột bất ngờ. Thông thường nó từ từ ngấm dần, có thể là bắt đầu với hình thức để bắt đầu một cuộc xã giao trong xã hội, thức uống giữa bạn bè, hoặc một ly rượu cocktail sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng nó không dừng lại ở đó: từ từ nó chìm đắm vào trái tim của nạn nhân cho đến khi chúng làm yếu đi sự tự chủ của nạn nhân.

Để xua tan bất kỳ nghi ngờ nào về lý do Ngài ban hành giới luật này, Đức Phật đã ghi lời giải thích vào trong quy luật tự nó: Người kiêng không sử dụng đồ uống có chất say và chất gây nghiện vì chúng là nguyên nhân của sự không tự chủ(pamada). Không tự chủ có nghĩa là sự thiếu thận trọng về đạo đức, bỏ qua những giới hạn giữa đúng và sai. Đó là sự mất mát của tính cẩn trọng (appamada), nguyên tắc đạo đức dựa trên nhận thức sâu sắc về những nguy hiểm ở những trạng thái bất thiện. Sự tự chủ là then chốt của con đường tu tập Phật giáo, "con đường dẫn đến bất tử," xuyên qua cả ba giai đoạn của con đường tu tập: đạo đức (Giới), sự tập trung (Định) và trí tuệ (Tuệ). Xử dụng các thức uống có chất say là nguy cơ rơi khỏi từng giai đoạn. Việc sử dụng rượu có chất cần sa là cảm giác xấu hổ và là không có đạo đức và do đó sẽ dẫn đến gần như chắc chắn để vi phạm các giới luật khác.Người nghiện rượu không do dự khi nói dối hoặc ăn cắp, mất tất cả ý thức về tình dục, và có thể dễ dàng bị kích động ngay cả để giết người. Số liệu thống kê xác nhận rất rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa việc sử dụng rượu và tội phạm bạo lực, không nói về tai nạn giao thông, nguy hiểm nghề nghiệp và bất hòa trong nhà. Nghiện rượu thực sự là một gánh nặng tốn kém nhất trên toàn xã hội.

Khi sử dụng chất say ngay cả những đạo đức cơ bản nhất cũng biến mất, cần nói một ít về ảnh hưởng ăn mòn của nó trên hai giai đoạn cao hơn của con đường tu tập. Một tâm trí bị bao vây bởi rượu sẽ thiếu sự tỉnh táo cần thiết cho tu tập thiền định và chắc chắn sẽ không thể tạo ra sự khác biệt tốt giữa phẩm chất tinh thần tốt và xấu để cần thiết phát triển trí tuệ. Con đường tu tập Phật giáo toàn bộ là một kỷ luật của sự điềm đạm, một kỷ luật đòi hỏi sự can đảm và trung thực để có một đoạn đường dài, tinh tấn, hoàn toàn tỉnh táo về những sự thật nghiêm túc về sự hiện hữu. Sự can đảm và trung thực như vậy sẽ khó có thể cho một người phải thoát ra khỏi sự thật đắm chìm vào ánh sáng lung linh nhưng mỏng manh dễ vỡ được mở ra bởi rượu và ma túy.

Một người trưởng thành, người tinh thần và tình cảm ổn định có thể thưởng thức một vài ly rượu với bạn bè mà không biến thành một kẻ say rượu hoặc một kẻ giết người. Nhưng có một yếu tố khác cần quan tâm: đó là, cuộc sống này không phải là cuộc sống duy nhất chúng ta trải qua. Dòng ý thức của chúng ta không chấm dứt khi chết mà vẫn tiếp tục trong các hình thức khác, và hình thức của nó đã được định rõ bởi thói quen, khuynh hướng và hành động của chúng ta trong cuộc sống hiện tại này. Khả năng tái sinh là bất tận, nhưng con đường dẫn đến các cõi thấp rộng và mịn, con đường đi lên dốc và hẹp. Nếu chúng ta bắt buộc phải đi bộ dọc theo mỏm đá nhỏ hẹp quan sát từ trên cao trông xuống vách đá sắc nhọn, chúng ta chắc chắn sẽ không muốn đặt mình vào nguy hiểm với một vài ly rượu. Chúng ta cũng sẽ ý thức rằng có nhiều điều làm cuộc sống của chúng ta đang bị đe dọa. Nếu như chúng ta chỉ cần có sự sáng suốt để nhận ra, chúng ta sẽ thấy ra rằng đây là một phép ẩn dụ hoàn hảo cho kiếp sống con người, như chính Đức Phật, Đấng Giác Ngộ, đã xác nhận (xem kinh Vực Thẳm SN 56:42). Khi loài người chúng ta đi bộ dọc theo mỏm đá hẹp, và nếu chiều hướng đạo đức của chúng ta bị mờ đục, chúng ta có thể dễ dàng ngã đổ bên đỉnh bờ vực, rơi vào cõi khổ, từ đó cực kỳ khó trở lại .

Nhưng nó không phải lợi ích của chúng ta, mà ngay cả cũng không đem lại lợi ích lớn cho gia đình và bạn bè của chúng ta, do vậy chúng ta nên tuân thủ giới cấm của Phật là kiêng các chất say. Để làm như vậy cũng là một phần trách nhiệm cá nhân của chúng ta trong việc bảo tồn Pháp của Đức Phật. Giáo Pháp của Đức Phật có thể tồn tại chỉ miễn là những người Phật tử gìn giữ nó, và ngày nay một trong những sự mục nát đang âm thầm hủy hoại nền tảng của Phật giáo là sự lây lan rộng rãi thói quen uống rượu của những người Phật tử. Nếu chúng ta thực sự muốn Giáo Pháp tồn tại lâu dài, để bảo hộ con đường giải thoát mở ra cho tất cả thế giới, thì chúng ta phải lưu tâm. Nếu xu hướng hiện tại tiếp tục và ngày càng nhiều Phật tử không chịu nổi sự hấp dẫn của rượu, chúng ta có thể chắc chắn rằng Giáo Lý sẽ tàn lụi trong tất cả hầu như tiếng tăm. Tại thời điểm lịch sử này khi thông điệp của nó đã trở thành rất cấp thiết, Giáo Pháp thiêng liêng của Đức Phật sẽ bị mất đi mà không có gì thay thế được, bị say mèm vì những ly rượu và lần hồ hỡi nâng ly của chúng ta.

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2018

Pháp không tái sinh

 Pháp không tái sinh
Dhamma Without Rebirth 

By Bhikkhu Bodhi - 1998

Việt dịch - Minh Hạnh 

Để đáp ứng với những căng thẳng trong cuộc sống thời nay về nhu cầu giáo dục tôn giáo liên quan đến cá nhân và có thể kiểm chứng trực tiếp, trong một số phạm vi Giáo Pháp nào đó, học thuyết về thuyết tái sinh của Phật giáo đã được nêu ra để kiểm chứng lại khẩn thiết hơn. Mặc dù chỉ có một vài học giả Phật giáo đương đại vẫn còn đi xa đến mức đề nghị bỏ học thuyết này vì là "không khoa học", một quan điểm khác đã đạt được kết quả cho thấy trong bất cứ thế nào tái sanh hay không tự nó là một thực tế, học thuyết về tái sinh không cần thiết trên phương diện tu tập Pháp và do vậy không có chỗ đứng chắc chắn trong giáo lý Phật giáo. Phật Giáo thì cho rằng điều quan tâm đến là ở đây và bây giờ, để giúp chúng ta giải quyết các khó khăn trong cuộc sống thông qua sự tăng trưởng sự tự nhận thức và sự trung thực nội tâm. Tất cả những gì còn lại của Phật giáo chúng ta có thể buông bỏ như là những đồ trang sức tôn giáo của một nền văn hoá cổ xưa hoàn toàn không thích hợp cho Giáo Pháp thời đại công nghệ của chúng ta. 

Nếu chúng ta buông bỏ các sở thích riêng của mình trong thời điểm này và thay vào đó đi thẳng đến nguồn gốc của chúng ta, chúng ta sẽ thấy được thực tế không thể chối cãi rằng chính Đức Phật đã dạy tái sinh và dạy nó như một nguyên lý cơ bản của giáo huấn của Ngài. Nhìn tổng thể, những bài thuyết giảng của Đức Phật dạy chúng ta rằng không chỉ là một sự nhượng bộ cho quan điểm đang thịnh hành trong thời của Đức Phật hay là phương thức văn hoá Châu Á, học thuyết về tái sinh có ảnh hưởng to lớn đối với toàn bộ quá trình tu tập Giáo Pháp, mà ảnh hưởng cả hai mục đích mà nó được theo sau để hoàn thành.

Mục đích của con đường tu tập Phật giáo là giải thoát khỏi đau khổ, và Đức Phật chỉ ra rõ ràng rằng những đau khổ mà sự giải thoát là cần thiết đó là sự đau khổ của ràng buộc vào sanh tử luân hồi, vòng tái sinh và chết. Để chắc chắn, Giáo Pháp có một khía cạnh có thể nhìn thấy trực tiếp và có thể tự kiểm chứng được. Chúng ta có thể nhìn thấy nỗi phiền não đó bằng cách thẩm định qua kinh nghiệm của chúng ta, sự căng thẳng, sợ hãi và sự đau buồn luôn luôn phát sinh từ tham, sân, si của chúng ta, và vì vậy để có thể đoạn diệt những phiền não chúng ta phải tẩy trừ tham sân si.Tầm quan trọng của khía cạnh trực tiếp nhìn thấy điều này trong việc tu tập Pháp không thể đánh giá thấp, vì nó nhằm khẳng định sự tự tin của chúng ta vào hiệu quả giải thoát của con đường tu tập Phật giáo.Tuy nhiên, để làm giảm tầm quan trọng của thuyết tái sinh và giải thích toàn bộ tầm quan trọng của Giáo Pháp như là sự giải thoát sự khổ đau tinh thần xuyên qua phẩm cách tự giác để chối bỏ Giáo Pháp theo những quan điểm rộng lớn hơn mà từ đó nó phát huy được quan điểm rộng rãi và chiều sâu của nó.Bằng cách làm như vậy, một trong những nguy cơ nghiêm trọng cuối cùng làm giảm nó xuống chỉ còn một hệ thống cổ xưa phức tạm về tâm lý học của nhân loại.

Đức Phật chính Ngài đã chỉ ra rõ ràng rằng vấn đề gốc rễ sự hiện hữu của con người không chỉ đơn giản là chúng ta thật sự có thể bị tổn thương bởi sự phiền não, sự thất bại và sự sợ hãi, nhưng chúng ta đã ràng buộc mình xuyên qua sự dính mắc vào bản ngã của chúng ta đối với trạng thái sinh già bịnh chết cái mà chúng ta trải qua những hình thức cụ thể của sự đau đớn tinh thần. Ngài cũng cho thấy rằng mối nguy hiểm chính trong các phiền não là nguồn gốc nguyên nhân của sự luẩn quẩn trong vòng tái sinh.Chừng nào mà chúng vẫn bám chặt những tầng lớp sâu thẳm trong tâm trí, chúng còn lôi kéo chúng ta trong vòng tái sinh nơi mà chúng ta bị ngụp lặn trong nước mắt "nhiều hơn nước của đại dương".Khi những điểm này được cân nhắc kỹ lưỡng, sau đó chúng ta thấy rằng việc tu tập Giáo Pháp không nhằm mục đích cung cấp cho chúng ta một sự hòa hợp thoải mái với những cá tính hiện có của chúng ta và tình trạng của chúng ta trong thế giới này, nhưng khi bắt đầu một sự biến đổi nội tâm khó với tới việc đó sẽ hoàn toàn giải thoát cho chúng ta khỏi vòng luân hồi. 

Phải thừa nhận rằng, đối với hầu hết chúng ta động cơ chính để bước vào con đường tu tập Giáo Pháp là đã có cảm giác ray rứt với đường lối thường lệ của cuộc sống chưa được khai sáng của chúng ta chứ không phải là nhận thức sắc sảo của những nguy hiểm trong vòng tái sinh.Tuy nhiên, nếu chúng ta đi theo một con đường Giáo Pháp đến tận cùng và rút ra cái tiềm năng của Giáo Pháp để đem lại hòa bình và trí tuệ cao hơn, nó là điều thiết yếu cho sự thúc đẩy việc tu tập của chúng ta vượt ra ngoài sự trưởng thành điều mà những gì ban đầu đã đưa đẩy chúng ta vào con đường tu tập. Động lực căn bản của chúng ta phải phát triển theo những chân lý thiết yếu mà Đức Phật đã mở ra cho chúng ta, và trên mọi lãnh vực những chân lý đó, phải sử dụng chúng để nuôi dưỡng khả năng của chính mình để hướng chúng ta tới sự nhận thức rõ mục tiêu. 

Động lực của chúng ta đạt được sự trưởng thành cần thiết bằng việc tu dưỡng chánh kiến, yếu tố đầu tiên của Bát Chánh Đạo, như Đức Phật đã giải thích bao gồm sự hiểu biết về các nguyên lý của nghiệp và tái sanh như là cơ bản của cấu trúc sự hiện hữu của chúng ta. Tuy nhiên sự quán chiếu hiện tại là chìa khóa cho sự phát triển của thiền minh sát, thì đó là một sai lầm cực độ khi tin rằng tu tập Giáo Pháp bao gồm toàn bộ trong việc duy trì chánh niệm của hiện tại. Con đường tu tập Giáo giáo nhấn mạnh vai trò của trí tuệ như là công cụ giải thoát, và trí tuệ phải bao gồm không chỉ sự thâm nhập của thời điểm hiện tại theo chiều thẳng đứng của nó, mà còn là hiểu được những gì trong quá khứ và trong tương lai mà hiện tại hiện hữu của chúng ta hiện ra. Nhận thức ở mức độ cao nhất về nguyên tắc tái sinh sẽ cho chúng ta tính chất toàn cảnh tương lai từ đó chúng ta có thể khảo sát cuộc sống của chúng ta trong bối cảnh rộng hơn và tổng số hệ thống các mối quan hệ. Điều này sẽ thúc đẩy chúng ta theo đuổi con đường của chúng ta và sẽ cho thấy ý nghĩa sâu sắc của mục tiêu mà chúng ta tu tập là điểm đích, kết thúc vòng tái sinh như sự giải thoát cuối cùng khỏi đau khổ. 

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2018

Pháp và Phi-nhị-nguyên Tính - Dhamma and Non-duality - Bhikkhu Bodhi

Pháp và Phi-nhị-nguyên Tính - Dhamma and Non-duality

By Bhikkhu Bodhi - 1998

Việt dịch - Minh Hạnh  dịch ngày 30-3-2018

Một trong những vấn đề thách thức nhất mà Phật Giáo Nguyên Thủy phải đối mặt trong những năm gần đây là sự gặp gỡ giữa truyền thống Thiền Vipassana Theravada và truyền thống Thiền Quán "Phi-nhị nguyên tính" của tiểu trường phái Advaita Vedanta của triết lý Vệ Đà và Phật Giáo Đại Thừa. Những phản ứng lại cuộc đối đầu này đã kéo dài đến mức cực đoan, phạm vi từ sự xung đột mãnh liệt đến các nỗ lực có xu hướng tổng hợp và lai ghép.Trong khi bài tiểu luận này không thể đòi hỏi làm sáng tỏ tất cả những vấn đề phức tạp và huyền ảo bao gồm trong cuộc đối thoại này đôi khi không ổn định, tôi hy vọng nó có thể đóng góp một vài tia ánh sáng theo định hướng quan điểm kinh điển Theravada.

Nhận xét đầu tiên sơ khởi của tôi nhấn mạnh rằng một hệ thống tu tập thiền định không phải là tự khép kín mình trong kỷ luật. Bất kỳ phương pháp xác thực nào về việc tu tập tâm linh thì luôn đặt nền tảng ẩn trong một quan niệm khuôn mẫu mà nó xác định các vấn đề thực hành là có dụng ý để giải quyết và mục tiêu hướng tới cái đã được định hướng. Vì lý do đó sự hợp nhất của các phương pháp truyền thụ cho các nhận thức thống nhất không tương hợp thì đầy rủi ro. Mặc dù những sự hợp nhất như vậy có thể làm dịu đi xu hướng thử nghiệm hoặc thuyết chiết trung, nhưng dường như hiệu quả lâu dài của nó sẽ tạo ra một "sự bất hòa liên quan đến nhận thức" điều đó sẽ phản xạ qua các mức độ sâu hơn của tâm lý và gây ra sự nhầm lẫn thậm chí còn lớn hơn.

Điểm lưu ý thứ hai của tôi cho thấy các truyền thống tâm linh Phi-nhị-nguyên tính đôi khi không phù hợp với nhau, nhưng thay vào đó, có nhiều quan điểm sâu sắc khác nhau và chắc chắn được tô màu bởi các đường nét khái niệm rộng hơn của các triết lý bao gồm chúng

Đối với trường phái triết học Vedanta (trong Ấn Độ Giáo), phi nhị nguyên tính (advaita) có nghĩa là không có sự phân biệt cuối cùng giữa Ngã thể, cái tôi tận cùng nhất, và Đại Ngã, thực tại linh thiêng, nền tảng của thế giới. Từ quan điểm của sự nhận thức thấu đáo về Pháp cao nhất, chỉ có duy nhất một thực tại cuối cùng tồn tại - đó là cùng một lúc Ngã thể và Đại ngã - và mục tiêu của cuộc tìm kiếm linh hồn để biết sự thật về chính mình, Ngã thễ, là thực thể vượt thời gian đó là Hiện Hữu, Tỉnh Thức, Hạnh Phúc. Từ khi tất cả các trường phái Phật giáo đều chối bỏ ý tưởng của Ngã thể, không ai có thể chấp nhận phi nhị nguyên tính của trường phái Vedanta. Từ quan điểm của truyền thống Theravada, bất kỳ sự truy tìm nào về tự ngã, cho dù đó là một cá thể vĩnh cửu hoặc là một cái tôi phổ quát tuyệt đối, sẽ phải bị bác bỏ như là một ảo tưởng, một lý thuyết suông ngớ ngẩn mang lại từ sự thất bại trong việc nhận thức thấu đáo đúng bản chất qua kinh nghiệm cụ thể.Theo Kinh Tạng Pāli , một chúng sinh đơn giản chỉ là một sự tổng hop phức tạp của ngũ uẩn, tất cả đều được quy định bằng ba định luật vô thường, đau khổ và vô ngã. Bất cứ giả định nào về tự ngã đối với vấn đề tổng hợp về hiện tượng nhất thời này là một trường hợp về "kiến thức chấp ngã." (sakkayaditthi), xiềng xích cơ bản nhất đó là ràng buộc chúng sinh với vòng tròn tái sanh. Kiến thức về việc giải thoái, đối với Phật giáo, không phải là việc thực hiện một cái ngã chân thực hay tuyệt đối "tôi", nhưng thông qua việc giải thể ngay cả ý nghĩa táo bạo nhất của tự ngã trong mối quan hệ với ngũ uẩn, "việc xóa bỏ tất cả những gì là tôi -tôi làm, của tôi-làm, và những xu hướng nằm dưới tính ngã mạn".

Các trường phái Phật Giáo Đại Thừa, mặc dù những sự khác biệt rất lớn lao của họ, nhưng đồng ý tán thành luận điểm quá khích, theo quan điểm Phật Giáo Theravada. Điều tuyên bố này là không có sự khác biệt cuối cùng giữa luân hồi và Niết bàn, phiền não và thanh tịnh, vô minh và giác ngộ.Đối với trường phái Đại Thừa, sự giác ngộ mà con đường tu tập Phật giáo được mục đích để tỉnh thức ở chỗ chính xác trong việc nhận ra quan điểm phi nhị nguyên tính.Tính chất hợp lệ của tính hai mặt thông thường bị từ chối bởi vì bản chất cuối cùng của tất cả các hiện tượng là tánh Không, không có bất kỳ giá trị thực sự hay tính chất xác thực nội tại, và do đó trong tánh không của tất cả các hiện tượng thay đổi khác nhau,có vẻ như sự phản đối được đặt ra bởi học thuyết Phật giáo thông thường cuối cùng trùng hợp: "Tất cả các pháp đều có một bản chất, điều đó không phải là tự nhiên. "

Lời dạy của đức Phật được tìm thấy trong kinh điển Pali không tán thán một triết lý về phi nhị nguyên tánh của bất kỳ loại nào, và tôi cũng không thể thêm vào đó, một viễn cảnh không phải là nhị nguyên tính được tìm thấy nằm trong những bài thuyết giảng của Đức Phật. Tuy nhiên, dù vậy, tôi sẽ không xác nhận rằng các kinh điển Pali đề ra thuyết nhị nguyên, sự sắp đặt của tính hai mặt như một giả thuyết siêu hình hướng vào sự phê chuẩn tài trí. Tôi sẽ định rõ đặc điểm mục đích của Đức Phật trong kinh điển Pali như là chủ yếu thực dụng hơn là lý thuyết, mặc dù tôi cũng làm nhẹ bớt điều này bằng cách nói rằng chủ nghĩa thực dụng này không hoạt động trong một trật tự triết học nhưng tìm thấy nền tảng của nó trong trạng thái tự nhiên hiện thực khi Đức Phật hiểu thấu nó trong sự giác ngộ của Ngài. Tương phản với các hệ thống phi nhị nguyên tính, cách tiếp cận của Đức Phật không nhằm mục đích khám phá ra một nguyên tắt đạo đức hợp nhất ở đằng sau hoặc kinh nghiệm thấp kém của chúng ta về thế giới. Thay vào đó, nó phải lấy thực tế cụ thể của kinh nghiệm sống, với tất cả sự mơ hồ lan truyền của nó về sự tương phản và phiền não, là điểm khởi đầu và là điểm chính của nó,trong đó nó cố gắng để chẩn đoán trung tâm vấn đề là cốt lõi của sự tồn tại của con người và đưa ra một giải pháp . Do đó, tu tập Phật giáo theo con đường cực đoan không phải là sự hiệp nhất cuối cùng mà là dập tắc sự đau khổ, đưa đến sự giải quyết vấn đề tiến thoái lưỡng nan đang hiện hữu ở mức cơ bản nhất.

Khi chúng ta nhìn vào những điều chúng ta đã kinh qua đúng như nó là thể hiện của bản thân, chúng ta thấy rằng nó được thâm nhập bởi một số phê bình hai mặt quan trọng bằng quan hệ mật thiết sâu sắc cho sự truy tìm tâm linh. Lời dạy của Đức Phật, như được ghi lại trong kinh điển Pāli, đã thu hút sự chú ý của chúng ta một cách không mệt mỏi vào những sự đối xử này và coi sự thừa nhận của họ như là nền tảng không thể thiếu đối với bất kỳ sự tìm kiếm sự giải thoát khôn ngoan nào. Đó chính là những sự tương phản - của thiện và ác, đau khổ và hạnh phúc, trí tuệ và sự vô minh - làm cho việc truy tìm giác ngộ và giải thoát là mối quan tâm cực kỳ quan trọng.

Tại cao điểm của hai lập trường đối lập nhau nhị nguyên tính có điều kiện và vô điều kiện: luân hồi là vòng tròn của tái sinh và chết lập đi lập lại trong đó tất cả đều là vô thường, có thay đổi và đưa đến khổ đau, và Niết Bàn là trạng thái giải thoát cuối cùng, không sanh, không già, và không chết. Mặc dù Niết-bàn, chắc chắn là một thực tại tối thượng ngay cả trong những bản văn sơ khai, và không chỉ đơn thuần là một trạng thái đạo đức hay tâm lý, không có chút ngụ ý nào rằng tính chất xác thực này là lý thuyết suông không thể phân biệt được một cách sâu sắc ở một mức độ hoàn hảo nào đó từ sự xuất hiện đối nghịch, luân hồi. Ngược lại, bài học lặp đi lặp lại của Đức Phật là luân hồi là lãnh vực của đau khổ chi phối bởi tham, sân và si, trong đó chúng ta đã tổn hao nước mắt nhiều hơn nước biển, trong khi Niết Bàn là giải thoát khỏi sinh tử, diệt lòng tham, sân và si, và buông bỏ tất cả các sự tạo điều kiện cho sự hiện hữu.

Như vậy, Phật giáo Theravada làm cho sự tương phản của luân hồi và Niết Bàn trở thành điểm xuất phát của toàn bộ cuộc truy cầu giải thoát. Hơn nữa, nó đối xử với sự tương phản này như là hạn định mục tiêu cuối cùng, đó chính là sự siêu việt của luân hồi và đạt được giải thoát trong Niết bàn. Sự khác biệt của Theravada với các trường phái Đại thừa đáng kể, bắt đầu với thuyết nhị nguyên của luân hồi và Niết bàn, sự từ chối quan tâm tính hoàn toàn trái ngược nhau này như chỉ là một bài học thông minh chuẩn bị cho những người tính năng chậm đốn ,để rồi cuối cùng bị thay thế bởi một số nhận thức cao hơn của phi nhị nguyên tính. Dựa vào quan điểm của kinh điển Pali, ngay cả Đức Phật và các vị A La Hán cũng đau khổ và có sự chết, luân hồi và Niết Bàn, vẫn còn khác biệt.

Những người tu tập tâm linh vẫn đang nghiên cứu những truyền thống thiền quán khác nhau thường cho rằng giáo lý tâm linh cao nhất phải là một trong những đòi hỏi một sự thống nhất siêu hình như là nền tảng triết học và mục tiêu cuối cùng của sự truy cầu giác ngộ. Theo giả định này có tính hiển nhiên, họ có thể kết luận rằng kinh điển Phật giáo Pali,với sự nhấn mạnh đánh giá đúng mức tánh nhị nguyên tính, thì thiếu hoặc tạm thời, đòi hỏi sự hoàn thành bởi một sự chứng ngộ phi nhị nguyên tính. Đối với những người có khuynh hướng như vậy, sự hủy bỏ nhị nguyên tính trong sự thống nhất cuối cùng sẽ luôn luôn xuất hiện sâu sắc và đầy đủ hơn.

Tuy nhiên, nó chỉ là giả xử mà tôi đưa ra. Tôi muốn xác nhận rằng, bằng cách tham khảo lời dạy nguyên thủy của chính Đức Phật, điều mà sự sâu sắc và đầy đủ không cần phải đạt được ở giá trị của sự ưu tú, mà chúng có thể đạt được ở mức độ cao nhất trong khi vẫn bảo tồn nhị nguyên tính và tính đa dạng nổi bật hiển nhiên mang tới sự trưởng thành của thế giới.Tôi cũng muốn nói thêm rằng giáo lý mà nhấn mạnh vào việc thừa nhận những tính nhị nguyên thực sự như chúng là cuối cùng đã trở nên thỏa mãn hơn. Lý do là để thỏa đáng hơn, mặc dù chối bỏ mong muốn thống nhất toàn diện của tâm trí, bởi vì nó có tính đến một yếu tố khác gạt qua một bên tầm quan trọng của việc tìm kiếm sự thống nhất. Điều này là "cái gì khác" là sự cần thiết phải giữ nguyên căn cứ vào thực tế.

Như thế nào tôi nghĩ lời dạy của Đức Phật, được bảo tồn trong truyền thống Theravada, vượt qua mọi nỗ lực khác để giải quyết tình thế tiến thoái lưỡng nan của nhân loại là sự từ chối liên tục hy sinh thực tại cho sự hiệp nhất. Phật Pháp không chỉ cho chúng ta một sự tuyệt đối bao gồm tất cả trong những căng thẳng của sự sống hàng ngày làm tan đi trong lý thuyết suông tính chất độc nhất hoặc tình trạng rỗng không khó hiểu. Đúng hơn, nó chỉ cho chúng ta, hướng về thực tại như là phạm vi hiểu biết cuối cùng, đối với mọi sự nhận thức đúng theo chân lý (yathabhuta). Trên tất cả, nó đưa ra cho chúng ta về Tứ Diệu Đế: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế con đường tu tập đế chấm dứt như là giải thoát mọi sự như chúng thực sự. Bốn chân lý này, Đức Phật tuyên bố, là chân lý cao quý, và điều gì làm cho những chân lý cao cả chính là chúng là tatha (thực và khách quan), avitatha (không phải là không thật và không phải là khách quan) và anannatha (không thay đổi). Sự thất bại đối mặt với thực tế của những sự thật này đã khiến chúng ta phải lang thang trong suốt quá trình dài của luân hồi. Đó là bằng cách hiểu sâu sắc chính xác những chân lý này như chúng ta có thể đạt tới sự hoàn hảo đích thực của cuộc tìm kiếm tinh thần: chấm dứt khổ đau.

Trong phần tiếp theo của bài viết trước đây, tôi dự định thảo luận về ba lĩnh vực chính của sự khác biệt giữa giáo lý của Đức Phật, mà chúng ta có đề cập đến ở đây như là "Pháp của Bậc Thánh - Ariyan Dhamma" và các triết lý về phi nhị nguyên tính. Những lãnh vực này tương ứng với ba lãnh vực của con đường tu tập đạo Phật - Đức hạnh (giới), thiền định và tuệ.

Đối với đức hạnh, sự khác biệt giữa hai lời dạy không phải là điều hiển nhiên ngay cả khi cả hai đều khẳng định tầm quan trọng của hành vi đạo đức khi bắt đầu tu tập. Sự khác biệt cơ bản rõ nét giữa hai lời dạy, không phải lúc đầu, nhưng chỉ sau đó, theo cách đánh giá vai trò của đạo đức trong giai đoạn tiến triển của con đường tu tập. Đối với các phương pháp phi nhị nguyên tính, tất cả cuối cùng đã vượt qua được trong việc thực hiện sự thực phi nhị nguyên, nền tảng Tuyệt đối hay cơ bản.Khi Thuần túy hoàn thiện và vượt qua tất cả sự đa dạng, đối với những người đã nhận ra sự khác biệt giữa thiện và ác, đạo đức và phi đạo đức, chúng mất giá trị cuối cùng. Như được nói, những phân biệt như vậy, chỉ có giá trị ở cấp độ thông thường, chứ không phải ở cấp độ nhận thức rõ cuối cùng; chúng là bắt buộc đối với những thực tập sinh, chứ không phải là những người tinh thông. Như vậy, chúng ta thấy rằng trong các hình thức lịch sử của chúng (đặc biệt là trong Hindu và Phật giáo Tây Tạng), các triết lý phi nhị nguyên tính cho rằng tư cách của bậc giác ngộ không thể bị giới hạn bởi các quy tắc đạo đức. Vị hiền giả đã vượt qua tất cả những phân biệt thông thường của thiện và ác.Ngài hành xử một cách tự phát từ trực giác Tối Thượng của các Ngài và do đó không còn bị ràng buộc bởi các giá trị quy tắc đạo đức như những người còn đang đấu tranh với quan niệm. Tư cách đạo đức của các Ngài là khó nắm bắt, không thể hiểu được của những gì được gọi là "trí tuệ khôn ngoan."

Đối với Pháp của Bậc Thánh (Ariyan Dhamma), sự phân biệt giữa hai loại hành vi, đạo đức và vô đạo đức, sắc bén và rõ ràng, và sự phân biệt này vẫn tồn tại suốt đời cho đến khi đạt tới sự thành tựu của con đường tu tập: "Thân hành, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa thân hành" "(MN 114). Đạo đức của vị Thánh mẫu mực,vị A La Hán, nhất thiết phải thể hiện các tiêu chuẩn đạo đức cao nhất trong tinh thần của phẩm hạnh cả hai trong tinh thần và trong văn bản, và cho sự phù hợp của Ngài trong văn bản là tự phát và tự nhiên. Đức Phật nói rằng người được giải thoát đã sống theo luật lệ của Luật tạng, nhìn thấy những nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhất. Vị Thánh Alahán không thể cố ý vi phạm bất cứ hành vi luân lý đạo đức nào, và cũng không bao giờ theo đuổi bất kỳ hành động nào thúc đẩy bởi tham, sân, si, ảo tưởng hay phiền não.

Trong phạm vi thiền quán hoặc thiền định, chúng ta lại tìm thấy một sự khác biệt nổi bật trong quan điểm giữa các phương pháp phi nhị nguyên tính và giáo pháp của Bậc Thánh. Từ đó, đối với các phương pháp phi nhị nguyên, sự khác biệt cuối cùng là không thực tế, thực hành thiền không rõ ràng hướng tới việc loại bỏ các phiền não và tu luyện các trạng thái đạo đức của tâm. Trong các phương pháp này, người ta thường nói rằng phiền não chỉ là sự xuất hiện không có thực tại tâm, thậm chí cả những biểu hiện của Tịch tịnh tuyệt đối - Nirvana. Do đó tham gia vào một chương trình tu tập để vượt qua chúng là một bài tập vô ích, giống như chạy trốn khỏi một con quỷ huyền bí: để tìm cách loại bỏ phiền não là củng cố ảo tưởng về tính nhị nguyên. Các chủ đề thiền định gợn sóng qua những luồng tư tưởng phi nhị nguyên tuyên bố: "Không ô nhiễm và không trong sạch"; "Những Sự ô nhiễm về bản chất cũng giống như sự khôn ngoan siêu việt"; "Đó là bởi niềm đam mê mà niềm đam mê đã được gỡ bỏ."

Trong pháp của các bậc Thánh hành thiền là một tiết trình thanh lọc nội tại tữ khời điểm tới cứu cánh. Quá trình này bắt đầu bằng việc nhận diện ra những nguy hiểm của các tình trạng bất thiện pháp: chúng thật sự làm ô nhiễm chúng ta cần được ngăn ngừa và loại bỏ. Mục đích đạt đến việc diệt trừ hoàn toàn các phiền não thông qua việc bồi dưỡng các việc làm thiện. Toàn bộ quá trình tu tập đòi hỏi một sự nhận thức sự khác biệt giữa sự tối tăm và sự sáng suốt của tâm, và tập trung vào nỗ lực và tinh tấn: "Ngươi không có chấp nhận những tư tưởng bất thiện đã khởi lên, ngươi từ bỏ nó, trừ diệt nó, diệt tận nó, không cho nó tồn tại""(MN 2). Những chướng ngại là "bởi vì không biết, bởi vì vô minh, kiến thức tiêu cực, không dẫn đến Niết-bàn" (SN 46:40). Tu tập thiền định để thanh lọc các chướng ngại của nội tâm, là sự chuẩn bị cho con đường đoạn diệt các lậu hoặc (asavakkhaya).

Cuối cùng, trong lĩnh vực tuệ học, pháp của các bậc Thánh và những phương pháp phi nhị nguyên tánh một lần nữa lại đi ngược nhau. Trong các phương pháp phi nhị nguyên tánh nhiệm vụ của trí tuệ là phá vỡ sự xuất hiện tính đa nguyên (hoặc tính đa nguyên xuất hiện) trong việc nhận ra tính chất hợp nhất xác thực đó làm nền tảng cho chúng. Trong thực tế hiện tượng, sự khác biệt của chúng và đa số của chúng, chỉ là sự hiện diện, trong khi tính chất xác thực là một người nào đó: hoặc là một đấng tuyệt đối (đấng Atman, Phạm Thiên (Brahman), Chúa Trời (Godhead), vv), hoặc một siêu hình học tính không (Tính không (Sunyata), tiếng nói thầm kín của tâm , Vv). Đối với các trường hợp như vậy, sự giải thoát cùng với sự xuất hiện của tính thuần nhất cơ bản trong đó các đối lập hợp nhất và điều khác nhau dễ dàng xóa bỏ.

Trong pháp của các bậc Thánh mục tiêu của sự khôn ngoan là thấy và biết tất cả sự vật như chúng thật sự là (Như thực - yathabhutananadassana). Vì vậy, để biết những sự vật như chúng là, người trí tuệ phải tôn trọng các hiện tượng theo sự chính xác đặc thù của chúng. Người trí tuệ bỏ ngoài tính đa dạng và tính đa nguyên. Thay vì tìm cách khám phá các đặc tính của hiện tượng, để có được cái nhìn sâu sắc về phẩm chất và cấu trúc của chúng. Nó di chuyển, không theo phương hướng của tất cả bao gồm sự đồng hóa với Tất cả, nhưng đối với việc thoát khỏi tất cả và sự vô tư giải thoát khỏi Tất cả. Việc tu tập trí tuệ không hề "làm suy yếu" các hiện tượng cụ thể bằng cách giảm chúng thành hiện thực, và cũng không coi chúng là những cửa sổ mở ra một mặt cơ bản. Thay vào đó tìm hiểu và phân biệt, để hiểu mọi sự việc như chúng thực sự là: "Và điều gì làm hành giả hiểu sự việc chúng thật sự là?". Hành giả hiểu: đó chỉ là sắc, nó đang sinh và đang diệt. Chỉ là thọ .. tưởng ....thức, như thể đang sinh và đang biến mất. " "Khi người đó cảm nhận được," Tất cả các hành đều là vô thường, đều là đau khổ, đều là vô ngã, "người đó sẽ giải thoát khỏi khổ đau: đó là con đường dẫn tới sự thanh tịnh."

Các hệ thống tôn giáo được tô màu bởi những ngụ ngôn được ưa thích của họ như là các giáo lý xây dựng. Đối với các phương pháp phi nhi nguyên tính, hai lối so sánh nổi bật chiếm ưu thế. Một là không gian, vừa bao gồm và vừa thâm nhập mọi vật trên thế giới nhưng tự nó không có nền tảng vững chắc nào hết; Cái kia là đại dương, nó vẫn duy trì tính đặc thù của nó dưới sự thay đổi của muôn ngàn đợt sóngNhững ngụ ngôn được sử dụng trong giáo pháp của bậc Thánh rất đa dạng, nhưng một chủ đề đoàn kết nhiều người trong số họ là tính sắc bén của cái nhìn - cái nhìn phân biệt rõ ràng và chính xác bức tranh toàn cảnh của các cảnh nhìn thấy, mỗi người trong cá tính riêng của nó:> "Này các Tỷ-kheo, ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết như thật: "Đây là khổ... biết như thật: "Đây là Con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc!" Nhờ hiểu biết như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát, vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần phải làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". "(MN 39).