Thứ Hai, 20 tháng 5, 2019

Pháp Bất Tử - The Undying - Venerable Acharn Maha Boowa

Pháp Bất Tử - The Undying
To the Last Breath - Dhamma Talks on Living and Dying 
: Venerable Acharn Maha Boowa Ñanasampanno

Minh Hạnh Việt dịch

Hãy lắng nghe ở đây bài Pháp thoại này, để chắc chắn tâm trí bạn không đi lang thang. Trụ tâm bên trong bạn thay vì để nó chạy theo những trạng thái cảm xúc và trí tưởng tượng khác nhau. Đừng nhìn lại và mong muốn xuyên qua những suy nghĩ và quan niệm trong quá khứ, vì ở đây và bây giờ chúng không thể mang lại bất kỳ lợi ích nào. Tại thời điểm này, bạn nên cố gắng để tâm tràn ngập với Phật Pháp, vì tâm một thời gian dài đã ngủ quên do xao lãng.

Tương tự như một khu rừng khô vì hạn hán thiếu độ ẩm, là nơi cây cỏ bị khô héo dễ dàng bắt lửa. Cả cây tươi và cây héo úa đều bị thiêu rụi và tan nát hết. Cháy rừng trong mùa mưa rất hiếm nhưng mùa nóng, khi cây cỏ vị khô héo, mang đến nguy cơ hỏa hoạn. Điều này có thể xảy ra ngay cả trong một tu viện lâm tăng khi trời rất khô. Tu viện lâm tăng  Bahn Tahd trên thực tế đã bốc cháy nhiều lần. Điều này là do nó bị khô héo.

Khi tâm không được Phật Pháp nuôi dưỡng và làm tươi mát thì trở nên cằn cõi, ngọn lửa của phiền não có thể nhanh chóng chiếm ngự. Điều này sau đó sẽ thiêu đốt mọi thứ trở thành ấn tượng. Lửa mang lại thiệt hại, do vậy khi phiền não rạo rực trong tâm làm sao tâm có thể thoát khỏi sự tổn hại? Bất kể giá trị của nó, nó sẽ trở nên xỉn màu và cuối cùng là vô giá trị. Đó là cách tâm đã liên tục bị thiêu đốt và tan nát bởi phiền não.

Một đám cháy sẽ làm hư hại tài sản của chúng ta tùy thuộc vào cường độ và phạm vi của nó. Dĩ nhiên, trừ khi tài sản được lưu trữ ở nơi an toàn trong két sắt, tại các ngân hàng để bảo vệ các vật có giá trị của chúng ta. Nhưng chúng ta có một  nơi an toàn trong tâm mình không? Hay chúng ta liên tục phơi bày bản thân trước nguy hiểm, luôn để bản thân dễ bị tổn thương mà không cần quan tâm đến tâm qúi báu của mình? Chúng ta có thể áp dụng phương pháp này khi xem xét tình huống của mình và học một bài học.

Tâm không thể có giây phút hạnh phúc nào vì liên tục bị đốt cháy. Ngọn lửa này là lửa tham, sân và si được mô tả trong bài kinh Kinh Bị Bốc Cháy.[1] Không có gì nghi ngờ hoặc không chắc chắn về điều này. Đó là một chân đế vượt thời gian. Chúng ta cần suy ngẫm những câu hỏi Phật Pháp này ở mức độ đặc biệt, cẩn thận so sánh và xem xét tính đúng đắn và chân đế của chúng, và sau đó ít nhất chúng ta sẽ ở trong một vị trí thoát khỏi lửa phiền não. Chúng ta sẽ tìm thấy một không gian để thở, một nơi an toàn, mát mẻ và sẽ không còn bị cuốn vào địa ngục. 

Các bạn đã nỗ lực để đến đây để tu tập. Các bạn có thể coi đó là sự tìm kiếm một nơi an toàn cho kho báu của bạn — đó là công đức và các phước báu của việc thiện mình đã làm[2] bạn hãy tích đức và bảo vệ chúng khỏi sự tàn phá của ba ngọn lửa tham sân si.

 Chiến đấu với đám cháy bên ngoài bình thường là đủ khó khăn; đặc biệt khi ngọn lửa đã đến mức thậm chí nước không thể dập tắt. Các vòi chữa lửa trong làng dường như luôn bị tắc, và nếu không sửa được thì ngôi nhà sẽ sớm bị đốt cháy và chỉ còn lại là tro tàn. Tuy nhiên, trở lại việc dập tắt ngọn lửa nội tâm là dựa vào sự tinh tấn tu tập công đức. Ví dụ như Thiền Tâm Từ[3]. Và rồi, tâm được thanh thản và tập trung, an lạc và tăng cường để có thể dập tắt những lửa phiền não trong tâm.

 Lửa, được định nghĩa, phải là rất nóng. Ngay cả các tia lửa cũng đốt cháy và làm đau nếu chúng ta đứng trước nó khi tia lửa bắn ra. Do vậy nếu chúng ta tiếp xúc với lửa chúng ta sẽ bị đốt cháy, ngày này qua ngày khác —Thì cái gì sẽ còn lại? Tâm bị đốt cháy. Thân có thể còn nhưng tâm sẽ sống với sự hiểu biết thấp kém và vô minh, không có khía cạnh lành mạnh bởi vì nó hoàn toàn bị những phiền não thiêu đốt. Nó là một sự hiểu biết được đầu tư với đau khổ, không phải với sự thoải mái và dễ dàng. Nó thiếu sáng suốt thiếu khôn ngoan và hoàn toàn tràn ngập đau khổ. Nhiều đến nỗi tâm dường như u mê. Tâm cần sự tinh tấn bền bỉ trong việc tu tập thiền định để dập tắt phiền não trong tâm. Điều này sẽ dần dần mang lại an lạc và hạnh phúc. 

Tất cả những lời dạy của Đức Phật nằm trong khả năng và phạm vi của chúng ta. Ngài không bao giờ đưa ra những điều không thể làm hoặc lời dạy mù quáng và thiếu nguyên tắc. Chúng ta những người tu tập nên xem những giáo lý Phật Pháp này có tầm quan trọng thiết thực trong đời sống và mang chúng sâu sắc trong tâm. Cũng như tất cả chúng ta đều né tránh đau đớn và phiền não — điều mà không ai muốn — vì vậy chúng ta phải có khuynh hướng điều trị và thuốc giải độc. Và đó là Phật pháp.

 Phân tích tình huống chúng ta sẽ thấy rằng khi tu tập, câu hỏi về sự dễ dàng hay khó khăn dường như không quá quan trọng. Chúng ta đã cẩn thận suy luận ra và hài lòng và thuyết phục về hiệu quả của nó. Chính điều này đã buộc chúng ta phải tu tập.

Chúng ta chỉ làm tốt nhất có thể. Với những ai không lười biếng khi mà những phiền não nắm phần kiểm soát? Do sự lười biếng này, chúng ta không thích làm điều gì tốt hay có lợi. Nó luôn thích giữ vị trí lãnh đạo nhưng chắc chắn sẽ không giúp chúng ta thoát khỏi đau khổ. Chúng ta vẫn bằng lòng và vô trách nhiệm, dần dần bị kéo xuống qua bề ngoài của ảo tưởng và tình trạng bị ép buộc của phiền não.  Đức Phật Ngài cũng đã trải qua và rồi sau đó Ngài khắc phục những áp bức của tâm. Đây là một cái gì đó chúng ta nên sử dụng như một sự phản ánh về tình trạng của chính chúng ta. Sau đó, khi sự lười biếng và chán nản lấn át chúng ta, chúng ta có thể khuyến khích và khơi dậy bản thân với tấm gương lý tưởng của Đức Phật. Một phương pháp sẽ hiển lộ và nguyện không khuất phục và cam chịu. Thật là khó khăn, đúng vậy, nhưng chỉ cần tiếp tục và tu tập.

Phương pháp để vượt qua đau khổ chiếm một tầm quan trọng nếu chúng ta nhận thức chân đế của sự khổ. Về mặc khác, tình trạng khó khăn này khiến sự ghét và sợ hãi sẽ luôn đối đầu với chúng ta. Nhưng nếu chỉ đơn thuần suy nghĩ bằng trí óc về phương thức giải thoát, mà không thực sự tu tập, sẽ không đưa chúng ta đến bất cứ nơi đâu. Không quan trọng kỹ thuật là dễ hay khó, miễn là có hiệu quả trong việc loại bỏ những phiền não của tâm thì phải được áp dụng. 

Tất cả chúng ta đều là bạn đồng hành và bình đẳng trong đau khổ, trong sinh tử giữa các cõi tồn tại khác nhau. Ngay cả sau một thời gian dài, chúng ta đều là người đến trước, không có ai là người đến sau. Mỗi chúng ta đã trải qua sinh tử lặp đi lặp lại, nhân duyên cuộn vào nhau trong những đau khổ. Không thể có sự tranh dành hay cạnh tranh ở đây vì tất cả chúng ta đều được điều hành trong bình đẳng và tất cả đều ở trên cùng một chiếc thuyền. Thay vì thực hiện những điều tốt nhất của chúng ta bằng tâm và Giáo pháp, họ đến từ việc cùng nhau đau khổ; theo hướng dẫn và chỉ đạo của phiền não. Không phấn đấu kiềm giữ ngược lại sự dẫn dắt đó, chúng ta sẽ không bao giờ kết thúc sự đau khổ.

Phật pháp dạy phương pháp diệt khổ. Được áp dụng kỹ lưỡng và hợp lý, nhận thức rằng nguồn gốc của đau khổ và mối đe dọa phải được khắc phục  như vậy với phương pháp như vậy. Để làm cho một cái gì đó tốt hơn như cải thiện, nâng cao, khắc phục có thể khó khăn hoặc dễ dàng, nhưng đó cũng là điểm trọng tâm. Khi thợ thủ công làm việc, anh ta chọn dụng cụ thích hợp cho công việc đang làm. Khi anh ta chọn dụng cụ cho mình, anh ta không quan tâm đến trọng lượng của nó mà chỉ tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Các Phương Pháp được lựa chọn để tu tập chống lại phiền não và để tạo cho tâm một sự chân thật và tính chính trực toàn vẹn là đến từ Giáo pháp.Những phương pháp giáo pháp này rất đa dạng và cần được lựa chọn để phù hợp với hoàn cảnh. Nếu tâm chỉ bị lo âu nhẹ do phiền não, chúng ta có thể áp dụng phương pháp kiềm chế nhẹ. Mức độ chánh niệm và trí tuệ, sức mạnh của sự tu tập, thời gian thiền định hoặc đi kinh hành hoặc kiểm tra của chúng ta chưa có ý nghĩa lớn vì công việc không ở giai đoạn quan trọng. Tuy nhiên, khi những phiền não trỗi dậy làm xáo trộn và ám ảnh tâm, và thấy không thể làm tâm nhẹ bớt hoặc tự buông bỏ, chúng ta không còn có thể lười biếng và không quan tâm.

Bây giờ là lúc phải hành động. Bất cứ thứ gì có sẵn đều được ném vào với thái độ làm hay chết và không nghĩ đến việc đầu hàng hay thất bại; trừ khi cái chết thực sự đến vì nó vượt ra ngoài khả năng của chúng ta. Phản ứng của chúng ta phải là huy động tất cả các nguồn lực của chúng ta và sẵn sàng chịu đựng tình trạng khó khăn. Sự kháng cự của chúng ta có thể mang theo sự đau khổ nhưng điều đó không là gì so với những tác động bất thường của sự đau khổ do phiền não sinh ra. Chính điều này đã nhấn chìm một cách triệt để đến nỗi không biết khi nào có thể thoát khỏi sự đau khổ.

Chúng ta đều biết về sự khó chịu và đau đớn khi ngồi thiền hoặc đi kinh hành trong thời gian dài. Chúng ta đã trải qua những khó khăn liên quan đến việc tìm kiếm các phương sách và phương tiện khéo léo để chống lại những phiền não. Chúng ta biết rõ điều này. Nhưng khi những thành quả của nỗ lực của chúng ta phát sinh, nó sẽ được trải nghiệm như một điều gì đó thực sự đáng chú ý. Hạnh phúc và điều kỳ diệu phát sinh! Cái nhìn sâu sắc mới với sự khéo léo và tháo vát như vậy. Đây chính xác là những gì chúng ta đã hy vọng.

Một khi quả trổ do nhân đã tạo chúng ta sẽ có thể đương đầu với bất kỳ trở ngại hoặc khó khăn nào có thể xảy ra. Nếu chỉ có khó khăn và cố gắng mà cuối cùng không được an lạc và hài lòng, thì không ai trong thế giới này có thể tiếp tục. Tôi không có ý nói những người bình thường, nhưng ngay cả Đức Phật cũng không thể giác ngộ, cũng như các đệ tử giác ngộ của Ngài — Các Bậc chúng ta đảnh lễ:

"Buddha.m, Dhamma.m, Sangha.m sarana.m gacchaami."

"Con xin quay về nương tựa Đức Phật, Pháp và Tăng."

Đúng thời điểm và cơ hội thích hợp sẽ luôn đến và chúng ta sẽ có thể kiềm chế vấn đề. Do đó, sự kiên nhẫn là chủ yếu,cũng giống như dùng lý luận rõ ràng có phương pháp và không thay đổi; nhưng nếu điều này yếu đi thì các phiền não sẽ ngay lập tức trở nên đe dọa và súc tích hơn. Với sự tinh tấn kiên trì, với chánh niệm, với trí tuệ sắc bén và nhạy bén, những phiền não sẽ dần tan biến. Những phiền não chỉ diệt trừ là do Giáo Pháp, vì không có gì khác có thể kiềm chế và khuất phục chúng. Giáo Pháp là niềm tin, tinh tấn, chánh niệm, định and tuệ.[4]

Niềm tin là tin vào những thành quả giác ngộ của Đức Phật. Giáo pháp mà Ngài ban cho thế giới chắc chắn để thoát khỏi đau khổ — Đó là Pháp làm cho có lợi ích. Điều đó nếu chúng ta tu tập theo lời dạy của Đức Phật, một cách thường xuyên và chắc chắn chúng ta sẽ đạt đến những thành quả như vậy.

Tinh tấn sẽ luôn mang lại kết quả đúng và phù hợp cho bất kỳ hành động nào. Cho dù việc trong tâm hay ngoài đời, nó sẽ được hoàn thành tốt khi được hỗ trợ bởi sự tinh tấn không ngừng. Điều này sẽ được chứng minh trong kết quả nổi bật và thích đáng của nó.

Chánh niệm là yếu tố quan trọng giám sát từng nhiệm vụ, ngăn ngừa bất kỳ sơ suất hoặc lỗi lầm.

Định là tâm vững chắc, không bị xao lãng trách nhiệm công việc đang làm cho đến khi hoàn thành. Điều này là khía cạnh nhân quả trong khi kết quả của định xuất hiện trong sự tu tập, tập trung tâm. Tâm an lạc và thanh thản. nhân của định tập trung vào hành động mà không xao lãng hoặc thiên vị và trạng thái định kết quả là sự yên tĩnh. Điều này dẫn đến Nhứt tâm - Tập trung sự chú ý vào một điểm duy nhất, điều mà Đức Phật mô tả là 'tâm chỉ có một đối tượng duy nhất', không có thêm bất cứ điều gì khác.

Tuệ là sự nhận thức rõ ràng thấu suốt, điều mà cần thiết cho việc kiểm soát từng tình trạng: nó có gây tổn hại hay là hoàn thành và hiệu quả? Chúng ta phải dựa vào tuệ để kiểm tra và phân tích.
Đây là những yếu tố của Giáo Pháp sẽ đưa chúng ta giải thoát khỏi đau khổ, đạt tới công việc hoàn mỹ chúng ta sắp đặt, để làm. Đức Phật cũng mô tả do sự tu tập đạt được bốn thần thông [5] có tầm quan trọng như nhau. 

Chúng là:

ước nguyện.[6] Điều gì mang đến sự ước nguyện của chúng ta? Nếu chúng ta ước nguyện phiền não thì đó là điều sẽ nảy sinh. Bất cứ điều gì chúng ta ước nguyện thì điều đó trở thành đối tượng tìm kiếm của chúng ta. Chúng ta muốn điều đó và vì vậy điều đó là những gì phát sanh. Tuy Nhiên, do sự tu tập đạt được bốn thần thông thì không liên quan đến những niềm vui thấp như vậy nhưng được hướng đến việc hoàn thành những khát vọng cao cả và đạo đức của chúng ta. Chúng là bốn phương cách để đạt được những mục tiêu nằm trong tầm tay của con người chúng ta.

Đồng thời với ước nguyện đó là sự tinh tấn không ngừng,[7] sự lưu tâm và sự chuyên tâm[8] làm việc, và trí tuệ toàn diện.[9] Những điều này kết hợp với nhau để tạo thành một lực hiệu quả duy nhất trong việc hoàn thành mục tiêu duy nhất.

Đây là Giáo pháp làm con người hoàn chỉnh và toàn diện. Tâm trở thành căn cứ vững chắc. Tinh tấn để hoàn thành công việc được củng cố với các nguyên tắc tuyệt vời, các phương pháp và phong tục truyền thống phù hợp. Tất cả những điều này đảm bảo rằng những người tiếp tục tu tập không đi ngược lại các nguyên tắc cơ bản của Pháp. Một khi tâm được hòa hợp với Giáo pháp theo cách này, nó được bảo vệ an toàn với Giáo pháp bảo vệ và sẽ liên tục tăng trưởng. Các yếu tố gây hại sẽ mờ dần, bởi vì bất kể tâm rơi vào tình trạng khốn khổ bao lâu nó vẫn không bị hủy hoại mà không có bất kỳ hy vọng nào để đổi mới. Vì một khi tâm được thanh lọc qua sự cố gắng nó sẽ được tươi sáng, thanh thản và hạnh phúc. Đây là chìa khóa, công cụ quan trọng để biến khát vọng của chúng ta thành hiện thực. Một sự mong muốn đơn thuần hoặc dễ nản lòng sẽ hủy bỏ những thành tựu như vậy.

Dù bạn đang làm gì hay nghĩ gì, cũng không bao giờ quên bậc Tôn Sư vĩ đại của chúng ta, Đức Phật. Mỗi khi bạn nản lòng hay bị dồn ép, hãy nhớ những lời khuyên của Ngài. Sự nỗ lực bền bỉ và sự giác ngộ của Ngài thông qua việc tu tập các yếu tố Pháp này Niềm tín, tinh tấn, chánh niệm, thiền định, và tuệ. Đây là phương pháp Ngài đạt đến Giác Ngộ.

Người ta nên đi con đường nào để phát triển và nuôi dưỡng tâm an lạc? Cho nên, ít nhất, bạn có thể nhận chắc là sẽ tu tập cách này, với một hướng dẫn và với giảng sư? Đức Phật đã giải thích cách tu tập hiệu quả của Ngài có phương pháp và hiệu quả,vì vậy thực sự không có con đường nào khác để tự mình tu tập.

"Dhamma.m sarana.m gacchaami: Con xin nương tựa Pháp"

— Câu kinh này rõ ràng phát sinh trong 5 yếu tố Niềm tin, tinh tấn, chánh niệm, định và tuệ. Đó là năm yếu tố chính Đức Phật khám phá ra.

"Sangha.m sarana.m gacchaami" — Cũng vậy, nương tựa nơi Tăng Chúng. Không một Thánh Đệ tử nào, bất kể trước đây giàu có hay đẳng cấp, đã từng thiếu quyết đoán hoặc dễ nản lòng. Một khi đi vào con đường Phật pháp, họ định rõ đặc điểm bởi năng lực và nỗ lực tinh tấn của họ. Khía cạnh gắng sức này là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tâm của một người. Năm yếu tố và Bốn đạo hợp nhất để tăng trưởng tâm, giải thoát tâm khỏi tình trạng bị áp bức của thế giới chìm trong đau khổ.

Một số đệ tử đi kinh hành trên con đường thiền định của họ cho đến khi chân bị phồng rộp. Sự phấn đấu như thế nào! Một số vị đã không nằm xuống trong ba tháng. Tỳ Kheo Cakkhupala kiên trì không ngủ để tu thiền định cho đến khi mắt Ngài nứt ra và bị vỡ và mù. Đó có phải là sự kiên định trong nỗ lực của một người hay không?

Đối với chúng ta, không cần phải hủy hoại cơ thể nhưng sẽ tốt hơn nếu chúng ta ít nhất có thể làm cho phiền não suy giảm; làm phiền não thối lui và biến mất. Đừng để chúng tràn ngập khắp mắt, tai, mũi, lưỡi, cơ thể và tâm. Một khi bị nhiễm phiền não, bạn sẽ không bao giờ có thể tìm thấy Giáo pháp hay bất cứ điều gì thiết yếu trong tâm. Làm thế nào trên trái đất bạn sẽ tìm thấy bất kỳ sự an lạc?

Chúng ta phải nương tựa vào các yếu tố Giáo Pháp này để vượt qua những phiền não đang chiếm ưu thế trong lòng. Những nguyên tắc này của Giáo Pháp phải được ghi sâu — đừng giữ trong lòng bất cứ điều gì khác. Chúng là những công cụ sẽ liên tục đưa tâm đến sự giải thoát hoàn hảo mà tất cả chúng ta đều đạt được rất cao. Sự lựa chọn của bạn là giữa tâm thanh thản và tâm bị sự thống trị của phiền não. Vì vậy, cái nào tốt hơn, nô lệ hoàn toàn bị mất tự do hay người được tự do?

Chúng ta từ lâu đã chấp nhận một cách thụ động dưới hàng loạt phiền não và tham ái. Chỉ khi chúng ta trở nên mệt mỏi với sự thống trị của chúng và bắt đầu nhận ra tai họa từ chúng, thì chúng ta mới có thể chống lại, bằng mọi cách có thể. Cuối cùng, chúng ta sẽ phải dựa vào năm yếu tố Giáo pháp thiết yếu này để kết thúc và loại bỏ phiền não.

Ở đâu là phạm vi tu tập và là nơi tranh đấu cho bất kỳ ai tu tập Giáo Pháp? Điều gì là trọng tâm cho những người đi kinh hành trên con đường thiền định của họ hoặc ngồi xếp bằng ngày đêm cố gắng tranh đấu và thẩm nghiệm? Đức Phật đã chỉ ra Tứ Diệu Đế từ các nguyên tắc của Giáo Pháp. Tu tập Tứ Diệu đế ở trong cơ thể và trong tâm của con người. Bạn là con người, vì vậy khi bạn đi kinh hành hoặc ngồi thiền để tìm kiếm chân lý và Giáo Pháp, điều rõ ràng là bạn phải nhận rõ được những Diệu đế.

Chúng ta nhận thức được những đau khổ phát sinh trong cơ thể và tâm của loài người và các động vật. Chúng ta, không giống như loài động vật, biết con đường khắc phục tình trạng. Làm thế nào sự đau khổ này có thể được chào đón và mong muốn? Khi nó xuất hiện trong cơ thể, nó hoàn toàn không được mong muốn, nhưng ngay cả với sự thoải mái và dễ chịu của cơ thể, mọi đau khổ xuất hiện sẽ mang đến sự lo lắng và hành vi tiêu cực, khó coi. Và gia tăng biểu hiện đau khổ theo một cách thậm chí tệ hơn.

Tâm đã bị thống khổ sẽ luôn tự nó hiển lộ trong những cách bất lợi, thay vì tự mình làm khuây và giải thoát khỏi sự đau khổ nó lại làm tình trạng tồi tệ hơn. Cái quan niệm rằng người ta có thể thoát khỏi đau khổ — 'lấy nó ra khỏi lồng ngực' — với những lời lẽ cay nghiệt và sự xúc phạm là hoàn toàn sai lầm. Trong thực tế, kẻ gây ra không chỉ làm tổn thương người khác bằng sự tuôn ra từ trái tim bẩn thỉu mà còn làm tăng sự đau khổ của chính anh ta. Anh ta lây lan và nhân lên những rắc rối của mình hơn là ném chúng ra ngoài.

Một yếu tố của Tứ Diệu Đế là quan tâm đến việc tìm hiểu sự đau khổ thực sự phát sinh như thế nào. Chúng ta có thể nhận thức được đau khổ nhưng để làm bất cứ điều gì về nó, chúng ta cần biết nguyên nhân gốc rễ của nó. nguyên nhân cuả sự không thoả mãn , là sự ham muốn (tanha) nhục cảm, muốn trở thành, muốn không trở thành gọi là Tập đế, nguyên nhân của sự đau khổ. Đức Phật Ngài thường giải thích điều này như, thèm muốn nhục dục, khao khác sự tồn tại và khao khát sự không tồn tại.[10]

Mong muốn những thứ mà tôi thích và ác cảm với những gì tôi không thích là nguồn gốc của sự đau khổ của chúng ta. Những sự bận tâm vọng tạo dựa trên phiền não đang tạo ra đau khổ và do đó có thể phân loại thành một nguồn. Tất cả các nhánh và nhánh này mọc ra từ một thân chính - và đó là trong tâm. Tâm thì gắn vào gốc rễ của sự tham lam, thù hận và si mê.

Thẩm tra thân của bạn và sau đó chuyển sự thẩm tra của bạn vào bên trong tâm. Thẩm tra những suy nghĩ và vọng tưởng đang diễn ra của tâm. Bạn tìm thấy gì? Sự sinh sôi nảy nở vô tận của những suy nghĩ và quá trình đau khổ cho cả bạn và người khác. Đức Phật đã dạy về việc tu tập chánh niệm và trí tuệ để thẩm tra những gì đang diễn ra. Tâm biểu lộ lo lắng và quan tâm đến ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức ). Nhưng vấn đề ở đây là gì?. Ở đây, ngũ uẩn có không gian của chúng vì vậy chắc chắn có đủ chỗ trong một nghĩa trang hoặc nhà hỏa táng, giống như mọi người khác trên thế giới.Tất cả những gì mối quan tâm và sự chiếm hữu này có thể đạt được? Lợi thế ở đâu? Kết quả là sẽ không có 'đau khổ vì mong muốn không toại'[11] trong tâm.Vì vậy, Đức Phật khuyên không nên nuông chiều những ham muốn như vậy và để thay đổi và thẩm tra tình hình thực tế.

Thân ngũ uẩn được tạo thành và kết hợp với nhau vì vậy cuối cùng cũng tan rã. Chỉ vậy thôi.Điều này có thể được nhìn thấy một cách không thể chối cãi một khi trí tuệ bừng sáng, và sau đó bất kỳ sự chiếm hữu nào dường như hoàn toàn vô nghĩa. Sau đó chúng ta có thể buông tay và để cơ thể đi theo trạng thái tự nhiên của chính nó; cho dù nó vẫn kết hợp với nhau hay đã bước vào giai đoạn tan rã cuối cùng không thể tránh khỏi.

Thế giới này rất nhiều nghĩa trang đang chờ đợi mỗi người và loài vật. Thẩm tra sự thật chúng ta không còn có thể nghi ngờ về thực tế tình tiết giới hạn của chúng ta, hoặc, quả thực, không thể tránh khỏi cái chết của chúng ta trong tương lai. Rõ ràng thừa nhận tỷ lệ tử vong này có nghĩa là chúng ta có thể buông bỏ những lo lắng và quan tâm của mình. Cái chết là một phần cơ bản của quy luật tự nhiên không thể từ chối hay trốn tránh. Hãy để tự nhiên theo cách của nó, và đất, nước, gió và lửa đi theo tính chất thiết yếu của chính nó.

Điều đó thực sự nên biết và không nhầm lẫn đất, nước, lửa và gió như 'chính mình'. Điều này hoạt động giống như một ký sinh trùng móc vào và nhốt tâm vào trong hỗn loạn. Chúng ta tự nhận chúng cho bản thân và từ đó rơi vào đau khổ .

Cảm giác của thân ngũ uẩn rất giống nhau. Chúng ta đã trải qua sự hài lòng và đau khổ[12] từ lúc mới sanh ra cho tới giờ phút này. Cho dù đó là cảm thọ của thân hay của tâm, nó đều là vô thường, khổ và vô ngã. Nó sanh rồi nó diệt... Khi những giả thuyết này và giả tưởng này (của thế giới) [13] được đưa ra, không có gì có thể giữ bền và không thể không thay đổi.

Chính xác là cảm nhận sự đau khổ ở đâu? Thân bị đau thì dễ dàng xem xét khi có kiến thức. Nhưng cảm giác đau khổ trong tâm. — đây là vấn đề quan trọng. Khi thân có nỗi đau thì tâm cũng cảm nhận được nỗi đau và phiền não cũng phát sinh bởi vì là nguyên do [14] của phiền não. Đây là cách mà những ô nhiễm căn bản là tham, sân, si ảo tưởng tất cả chúng sanh trên thế giới với những mê hoặc của chúng. Cái ảo tưởng của sự nhận thân này là tôi phải được xóa bỏ bằng sự phân tách kỹ lưỡng và bản chất thật sự của thân. Thẩm định kỹ lưỡng cái vui cái buồn là để không sanh khởi trong tâm ý tưởng rằng cảm giác chính là tôi.

Hãy để mọi thứ như chúng thật sự là: cảm giác là cảm giác trong khi đây là tôi, đó là sự hiểu biết. Đừng trộn chúng lên. Dù sao đi nữa, điều đó là không thể vì thực chất chúng khác nhau. Làm thế nào chúng có thể trở nên hợp nhất thành một? Có thể nào hai cá thể có thể kết hợp như là một không? Phải cưu mang trọng lượng của một người đã là đủ nặng —nhưng để có thêm trọng lượng của hai, ba, bốn hoặc năm người khác ... Chúng ta không chỉ gánh vác thân mà còn gánh lên vai bốn uẩn khác, điều đó đè xuống với trọng lượng của sự dính mắc. Đó là tâm chịu trách nhiệm và vì vậy chỉ có tâm là phải gánh chịu hậu quả. Đó là đau khổ — và không có sự đền bù nào được tìm thấy. Nhưng chúng ta vẫn kiên trì giữ chặt . Điều này cần nhìn vào để thấy bản chất thực sự của nỗi đau.

Sau đó là tưởng uẩn hoặc sự tưởng nhớ,[15] đó là chỉ nhớ lại chuyện gì đó rồi lại quên nó . Khi mà ký ức đó gợi lại chúng ta có thể nhớ lại nó và sau đó nó sẽ mờ dần và lại biến mất — "sanyaa vaassa vim hati". Đó là cách Đức Phật mô tả nó và ai có thể không đồng ý điều đó. Tưởng là vô thường, ký ức dần dần mờ nhạt rơi vào lãng quên — "sanyaa aniccaa". Sự vô thường này được Đức Phật dạy và đó là điều mà bây giờ chúng ta thường tụng cho người chết:

"Aniccaa vata sankhaaraa — Tất cả các vật cấu tạo là vô thường ."

Nhưng không có câu kinh nào hay câu thần chú nào có thể nói về một người hay một bản ngã. Bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ dấu hiệu nào của cái ngã trong tất cả năm uẩn, vì chúng là vô thường, đau khổ và vô ngã .

Thẩm nghiệm và phân tích xuyên qua sự hiểu biết tinh tế hơn. Đừng sợ chết, vì sợ chết như thế không được tìm thấy trong tâm. Mang những nỗi sợ hãi như vậy, bạn sẽ chỉ thành công trong việc lừa dối bản thân và dồn nén đau khổ. Điều này đi ngược lại với Giáo pháp, với chân đế đã được Đức Phật dạy. Nếu bạn chấp nhận con đường tu tập của Đức Phật thì rõ ràng bạn nên tuân thủ và nhận ra chân đế cho chính mình thay vì chống lại. Đây là chân đế hãy Quy Y. "Buddha.m sarana.m gacchaami." Sự nhận thức rõ về chân đế của tâm không phải chỉ là những lời nói suông. Đức Phật đã ban Giáo lý này cho tất cả chúng sinh trên thế giới, và điều đó bao gồm chúng ta vậy tại sao chúng ta không hiểu được Tứ Diệu Đế. Điều này ở đó trong mỗi chúng ta.

Bây giờ, nói về hành uẩn (sự tạo thành của các suy diễn)[16] Có phải đây là sự tạo ra và sự tưởng tượng của những suy nghĩ đáng tin cậy? Chúng ta nghĩ ra nhiều hình thức từ nhiều thứ khác nhau — lấy ví dụ, lấy hình dạng của một con búp bê mà nó đã nhanh chóng bị vỡ vụn. Sự tưởng tượng của chúng ta dường như rất giống. Chúng ta nghĩ tốt hay xấu (mọi thứ), bất cứ điều gì đều trở thành một sáng tạo để đánh lừa chính mình. Đây là lý do tại sao tâm thì dẫn đầu của những kẻ ngốc, là cả tin và dễ dàng bị lừa dối. Nó tin vào bất cứ điều gì và hành xử sai muôn đời .

Tuy nhiên, khi trí tuệ có mặt nó sẽ có thể suy xét và cẩn thận nghiên cứu những vọng tưởng đó. Chúng có thể xuất hiện hàng trăm hoặc hàng nghìn lần trong một giây, nhưng trí tuệ đã sẵn sàng ở mỗi lần. Cái gì có thể đánh lừa được tuệ giác? Nó nhận ra rằng sự cấu tạo là sự cấu tạo, và sự hiểu biết là tâm. Làm thế nào nó có thể bị lừa dối bởi chúng? Tại sao phải giật mình và phản ứng với cái bóng khởi lên từ chính mình— Vì đây là sự cấu tạo.

Với thức uẩn[17]cũng vậy. Trong từng sát na bất cứ điều gì tiếp xúc thông qua các giác quan và được tâm biết. Sau đó, nó được tạo thành thông qua sự hình thành và ký ức thành ảo tưởng tự cho mình. Chúng ta liên tục rơi vào sự võ đoán chính mình và đó là sai lầm khi bắt giữ những đối tượng tạo ra đau khổ. Các thiệt hại được thực hiện ở đây và đây là nơi nó phải được nhận ra.

Bạn sẽ học được Tứ Diệu Đế ngay tại thời điểm này. Theo dõi và thẩm tra nó với độ chính xác và tinh tế hơn, mà không cần quan tâm đến việc bạn phải vượt qua nó bao nhiêu lần. Điều quan trọng nằm ở sự thâm nhập rõ ràng cuối cùng của trí tuệ, có thể xuyên qua bất kỳ chấp trước nào ngay cả khi nó có vẻ to như một ngọn núi.

Khi trí tuệ kiểm soát gắt gao, tham ái sẽ ngủ yên nơi sâu thẳm,[18] của tâm. Nỗ lực đẩy mạnh cùng với trí tuệ, triển khai Vô thường, đau khổ và vô ngã (hỏi và nghiên cứu) chính xác nơi thật sự căn bản của các dấu ấn này được tìm thấy. Mạnh mẽ hơn nữa, bạn sẽ thấy rằng nó chỉ tồn tại ở đó trong tâm nơi chúng đã kết hợp lại với nhau. Ở những nơi khác, nó chỉ là những cái bóng tách rời; hứng thú và lừa dối về sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Một khi chúng cùng xuất hiện, tâm cần thiết kiểm soát và thẩm tra nghiên cứu, ngay tại đó, trong tâm. Tại thời điểm này, chúng ta phải sẵn sàng nhận định chúng và xóa bỏ chúng tại đó, trong sâu thẳm của tâm. Chúng giống như những người lính phục kích, chờ đợi để bắn vào đầu chúng ta. Khi kẻ cướp chiếm lấy một vị trí, cho dù tòa nhà có giá trị đến đâu, chúng ta phải đi vào bằng chất nổ và thổi bay chúng; phá hủy tất cả, bao gồm cả kẻ cướp. Tất cả phải được xóa sạch — chỉ vậy thôi. Chúng ta vẫn có cuộc sống và có thể xây dựng lại, vì chúng ta đã cũng cố gắng tránh cái chết.

Đây là cách đối phó với những loại ô nhiễm tinh vi là tham, sân, si nằm ẩn trong tâm. Đánh bật chúng thật mạnh với giáo lý của Vô thường, khổ và vô ngã, bởi vì những phiền não này là bản chất của sammuti là sự vừa lòng— tất cả các ảo tưởng của chúng ta về thế giới. Chúng phải bị nghiền nát và xóa bỏ khỏi tâm, và sau đó chúng ta sẽ xem liệu trái tim cũng đã bị hủy diệt. Không, Tâm không bị hủy diệt. Tâm không có hầm mộ. Vì bản chất của nó là bất tử[19] — ngay cả khi nó bị cấu uế.

Đức Phật gọi đây là sự tan rã hoàn toàn của phiền não: "chấm dứt nguy hiểm, dập tắt lửa tham, sân và si " bởi tưới tẫm bằng phương lương diệu dược Pháp Bất Tử[20] . Với những phiền não đã biến mất, chỉ còn lại sự tinh khiết không tì vết. Chính ở đây tâm hoàn toàn thanh lọc, hạnh phúc hoàn hảo sẽ được tìm thấy. Tất cả các việc kết thúc ở đây; tất cả các dự án kết thúc ở đây. Đức Phật nói::

"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc gì nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."[21] Với chánh kiến tất cả phiền não chấm dứt.

Đỉnh cao của Pháp được tìm thấy trong tâm thanh tịnh này. "Con xin quay về nương tựa Phật Pháp Tăng" Câu niệm này chúng ta liên tục niệm với lòng tôn kính Đức Phật, tất cả các tụ họp và tập trung trong trạng thái thiên nhiên này. Phật, Pháp, Tăng chính xác là bản chất thuần khiết này. Quan tâm đến câu hỏi Đức Phật Nhập Niết-bàn[22] tại Ấn Độ — 'Đã qua bao nhiêu thế kỷ?' — bây giờ sẽ kết thúc. Tánh chất thực sự của Phật, Pháp và Tăng bây giờ được thể hiện rõ trong tâm thanh tịnh của chính mình. Đây là kho báu vô giá của tâm, nơi nhìn thấy trạng thái thực sự của mọi thứ và tất cả các câu hỏi được giải quyết.

Đức Phật đã đi đâu khi Ngài Nhập Niết-bàn? Thân ngũ uẩn của Ngài dĩ nhiên tan rã theo tánh tự nhiên của chúng. Tuy nhiên, là trạng thái thiên nhiên thanh tịnh Phật, không bị phá hủy hoặc bị tiêu diệt vì không bị giới hạn bởi thời gian hay vị trí. Đó là điều chúng ta nương tựa vào "Con xin quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng - Buddha.m- Dhamma.m- Sangha.m sarana.m gacchaami".Khi chúng ta có thể tự mình trải nghiệm điều này, chúng ta sẽ có thể xác minh hoàn toàn chắc chắn rằng tánh chất này không thể bị hủy diệt.

Những Thánh đệ tử Arahant hiểu điều này. Bất cứ nơi nào họ có thể, họ cùng với Pháp; với 'Phật, Pháp và Tăng', bền lòng trung kiên với Đức Phật.Tâm của Chư vị không thể lay chuyển được vì ngọn lửa dục vọng đã được dập tắt với dòng nước Pháp. "Việc chế ngự và chấm dứt các yếu tố ràng buộc là hạnh phúc tối thượng."[23] Những yếu tố ràng buộc này thực sự là samudaya - Tập Đế, Nguyên nhân của sự đau khổ, Vì vậy, khi điều này chấm dứt, tất cả những gì còn lại là hạnh phúc tối thượng.

Những phương cách và kết quả, tốt và xấu, nằm trong tất cả chúng ta, những người nhận thức và quan tâm.. Trạng thái này được biết là hợp nhất với tất cả các cấp độ của Pháp, cho đến và bao gồm cả trạng thái thanh tịnh[24] và không có gì ngoài kiến thức này.

Hãy cố gắng thanh lọc trạng thái được biết này, loại bỏ nó khỏi mọi vật cản và ảnh hưởng áp bức. Sau đó, sẽ không cần phải hỏi về Niết-bàn, vì đã trải qua trái tim thanh tịnh, tất cả các câu hỏi cuối cùng sẽ được giải quyết.

Bài pháp kết thúc tại đây.

Notes

1. raaga, dosa and moha. AAdittapariyaaya Sutta

2. punya = phước báu của việc thiện (Pali) or boon (Thai)

3. Thiền Tâm Từ

4. saddhaa, viriya, sati, samaadhi, panyaa

5. Bốn Thần Thông

6. sự ước muốn, ước nguyện, động lực thúc đẩy, Ý muốn—Dục vọng

7. Tinh tấn, ba la mật thứ tư trong Lục Ðộ Ba La Mật (sự siêng năng)

8. Tâm ý

9. viima.msaa

10. kaamata.nhaa = Dục trong Cõi Dục Giới, bhavata.nhaa = Dục trong Sắc Giới and vibhavata.nhaa = Dục trong Vô Sắc Giới

11. yampicca.m na labhati tampi dukkha.m

12. sukha-, dukkha-vedanaa

13. sammati

14. samudaya

15. sanyaa

16. Hành uẩn

17. Thức uẩn

18. guuhaaseyya.m

19. Bất tử

20. amata-dhamma

21. "Vusita.m brahmacariya.m kata.m karaniiya.m naapara.m itthattaa yaati pajaanaati."

22. parinibbaana

23. "Tesa.m vuupasamo sukho."

24. visuddhi dhamma

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2019

Sẵn Sàng để ra đi : Sẵn Sàng Để Chết - by Venerable Acharn Maha Boowa

Sẵn Sàng để ra đi : Sẵn Sàng Để Chết
 Ready to Go : Ready to Die

- Dhamma Talks on Living and Dying
Venerable Acharn Maha Boowa Ñanasampanno   edited by Bhikkhu Ariyesako1996

Minh Hạnh Việt dịch

"... Đức Phật dạy ngày nào chúng ta chết không quan trọng.
Bất cứ khi nào hơi thở hết, đó là ngày chết.
Quan trọng duy nhất là hơi thở cuối cùng của chúng ta....

Lời Giới Thiệu  

Bất kỳ ai đã từng đến thăm những Tu Viện Lâm Tăng của Thailand sẽ không cần lời giới thiệu. Họ đã được gặp những vị Thiền Sư, những người đã giảng dạy trong sự không gò bó và trực tiếp, và thể hiện qua thân giáo trong việc giảng dạy. Đây là Giáo Phái Lâm Tăng, đầy khí lực nhưng không kỳ vọng, người truyền cảm hứng trong cuộc sống và đường lối tu tập hơn là đọc chúng. Còn nữa đây là một cuốn sách — và là một bản dịch của một cuốn sách tại đó — điều mà chỉ có thể cố gắng dâng hiến một phần quan cảnh nào đó của lời giáo huấn.

Đây là phần đặc biệt so với phần thứ nhất của tuyển tập các bài Pháp, Cho Tới Hơi Thở Cuối. Những bài pháp này đã được giảng trong hoàn cảnh khá đặc biệt: Một người, hiểu biết nhiều về Phật Pháp, đang chết vì bịnh ung thư. Do vậy đã nhấn mạnh vào việc đối phó với nỗi đau, nỗi lo lắng và, cuối cùng, chết. Điểm chính là vượt qua sự đau khổ và cái chết.

Sẵn Sàng để ra đi : Sẵn Sàng Để Chết  

Tâm của chúng ta rất giống một đứa trẻ. Đứa trẻ thì không thể tự chăm sóc và do đó phải tùy thuộc vào mẹ và cha, vào người giám hộ và người bảo mẫu, dựa vào nhiều người khác. Nhưng đứa trẻ ít nhất có cha mẹ và người giám hộ chăm sóc, để bảo đảm nó không bị nguy hiểm. Trong khi đó tâm chúng ta luôn luôn nắm bắt và dính mắc vào những thứ khác, nó không tìm thấy bất kỳ sự an toàn và đáng tin cậy.

Tâm không thể dựa vào chính nó và do đó luôn thích dính mắc vào mọi thứ. Phần lớn , nó có khuynh hướng tiếp cận với những điều sai trái, những điều gây hại. Lý do mà nó thích tìm kiếm và giữ lấy mọi thứ, là để nó có thể tìm thấy sự an toàn, đáng tin và thoải mái cho chính nó. Tuy nhiên, những thứ nó dính mắc không chân thực và vì vậy chúng thường gây ra mối nguy hiểm cho tâm. Cho dù chúng ta là trẻ em hay đã trưởng thành, đây là cách mà tâm của chúng ta có xu hướng.

Thay vì cố gắng tin vào chính mình, chúng ta luôn đặt hy vọng vào những thứ khác, những người khác. Chúng ta không thể tự đứng bằng hai chân. Điều này là do tâm chúng ta không có tuệ để kiểm tra xem các đối tượng mà nó nắm bắt là đúng hay sai, tốt hay xấu. Nó không biết cách tự chăm sóc bản thân, cách tự giúp mình, vì không có ai dạy nó. Không có ai để tư vấn làm thế nào để biết những thứ nguy hiểm và những thứ có lợi, những thứ nào nên được giữ và những thứ không nên. Do đó, tâm liên tục nắm bắt bất cứ điều gì, dù tốt hay xấu, miễn là nó thích. Ngay cả khi nó không hài lòng, đặc điểm của tâm vẫn là liên tục nắm bắt và đeo bám. Tại sao vậy?

Thông thường, người ta không nghĩ rằng các đối tượng cảm xúc hoặc một điều gì đó không hài lòng thì không đáng để dính mắc. Tuy nhiên, tâm liên tục nắm bắt những điều như vậy. Nó nắm bắt sân hận, si mê và ham muốn, thù hận và phẫn nộ, bởi vì nó dính mắc và bị cuốn vào chúng. Chúng ta không bao giờ có thể nói rằng tâm chỉ đơn giản là biết một vật thể, vì nó luôn bị cuốn vào và dính mắc. Phần lớn, những điều đó không có gì tốt trong chúng.

Tại sao tâm phải bận rộn và nắm bắt mọi thứ? Đó là bởi vì nó bị thu hút mà không nhận ra tác động của sự dính mắc của nó. Mặc dù bạn có thể muốn tách ra khỏi nó nhưng bạn không thể, bởi vì có một thứ khác đủ mạnh để buộc tâm phải nắm lấy và bám vào. Đối tượng sau đó bị cuốn vào những cảm xúc, liên tục bị che khuất và che khuất chính mình. Ở đây chúng ta đang nói về các đối tượng cảm xúc1 và những lo lắng.

Bây giờ tôi sẽ nói về các đối tượng cụ thể. Tâm sẽ nắm bắt và dính mắc vào bất cứ đối tượng nào có mặt. Nó không quan tâm là tầm thường hay quan trọng như thế nào, có giá trị hay vô giá trị như thế nào; tâm có thể và sẽ tự dính mắc. Không có gì sai nếu chúng ta gọi tâm là một kẻ 'đuổi bắt' chuyên nghiệp. Điều này là do tâm luôn không trụ vào chính nó, và do vậy thường phóng tâm chạy theo những trần cảnh bên ngoài, cho tới cuối đời thì tâm dẫn dắt người ta xuyên qua nhiều tình huống thay đổi. Tâm thậm chí có thể quên mình bằng cách đầu hàng trước sức mạnh của các vật thể bên ngoài, mặc dù sự kiểm soát của chúng là vô căn cứ và dẫn đường sai.

Đức Phật dạy rằng, "Hãy nương tựa chính mình, tựa nương ai khác được, khéo tu tập tự thân, được nơi nương khó được". (2) Hãy cố gắng rèn luyện tâm tập trung vào tâm, vì xu hướng của tâm là luôn luôn hy vọng tin vào những thứ khác. Thoát khỏi sự ràng buộc bản thân từ những đối tượng như vậy và hướng tâm vào trong để nương tựa nhiều hơn vào tiềm lực và khả năng của chính mình. Đừng phụ thuộc vào cha mẹ, bạn bè và những người khác, đến nỗi quên mất chính mình. Đặc điểm con người của chúng ta là liên tục tìm kiếm sự hỗ trợ ở người khác cuối cùng trở thành thói quen cá nhân. Giống như thế trên toàn thế giới, và về vấn đề này chúng ta khó có thể đo lường được một số loại động vật. Đây là lý do tại sao Đức Phật dạy về sự tự lực.

Trong những vấn đề tầm thường và thô thiển của chúng ta, như công việc và những trách nhiệm khác, chúng ta nên cố gắng tự chủ nhiều hơn. Tu học Giáo pháp - tâm tu tập thiền định - chúng ta cần phải có một vị Thầy có kinh nghiệm để hướng dẫn đầy đủ hướng đi đúng để tu tập.Thật sự việc tu tập, cho dù là nhiệm vụ của mỗi người chúng ta, để tìm thấy sự đảm bảo trong sự tự lực của chúng ta theo các nguyên tắc của Phật Pháp. Đức Phật đã dạy, ví dụ, về việc trau dồi tâm thiện và đức hạnh thông qua việc bố thí, giới luật[3] và thiền định. Đây là điều để chúng ta có thể phát triển sự tự lực, đó là tâm trú trong các điều thiện và lành mạnh. Sau đó được an lạc và hạnh phúc trong cả cuộc sống hiện tại và tương lai, bởi vì chúng là những điều có lợi và bắt nguồn từ những hành động thiện. Chúng tạo nên những đối tượng tốt hoặc trở thành dinh dưỡng tốt cho tâm.

Chúng ta được chỉ dạy tu tập thiền, đó là một bước cao hơn trong sự gạn lọc tâm. Sự tinh tần này rèn luyện bản thân chúng ta trong thiền định là phương thức nương tựa đáng tin cậy và bền vững hơn vào chính mình. Chúng ta làm công việc chuẩn bị định (parikamma) [4] như là phương tiện để hướng dẫn và kiểm soát tâm. Thay cho, tâm chưa thể tự chống đỡ, chúng ta phải dựa vào giai đọan chuẩn bị định là đối tượng để làm dịu và mang lại an lạc và tĩnh lặng. Làm tâm lắng xuống với câu niệm Phật "Buddho Buddho Buddho ..." là một ví dụ về điều này. Đức Phật (Buddho) là một đối tượng để tâm trụ lại, chính xác, đúng đắn và thích hợp để tìm nơi nương tựa trong Phật Pháp.

Trong những lần bắt đầu tu thiền tâm không định tỉnh và mất tập trung, hon nữa chưa thể tự ổn định tư tưởng trên cơ bản Phật Pháp và trở nên tự lực. Tâm phải phụ thuộc vào giai đoạn chuẩn bị định để định hướng cho đến khi hòa nhập với giai đoạn chuẩn bị định và tập trung vào sự tĩnh lặng. Khi tâm đi vào sự tĩnh lặng, ngay cả giai đoạn chuẩn bị định cũng không còn là vấn đề nữa. Đây là một bước tiến đến tự lực giai đoạn chuẩn bị định có thề buông lỏng ở giai đoạn này, vì tâm đã ổn định trong tĩnh lặng. Đây là một nền tảng và nơi nương tựa cho tâm có thể thấy rõ. Ngay cả chỉ có chút ít cũng vẫn có thể tìm thấy sự bình thản và an lạc trong tâm, thường thì tâm hay bấn loạn và thiếu tập trung, không thể tìm thấy bất kỳ sự bình yên nào. Điều này là do tâm thường không có sự an lạc mà chỉ gây rắc rối và bất ổn, đói khát, và lo lắng về những vấn đề không có ích gì với nó. Đối với hầu hết các vấn đề này là những suy nghĩ và trí tưởng tượng của tâm, là cấu uế và đốt cháy chính mình - mà không có ai khác tham gia.

Đức Phật đã khám phá ra phương cách tu tập chính xác và đạt được kết quả cho sự an lạc của tâm. Do đó, Ngài có thể giải thích về nguyên nhân, hoặc phương cách tu tập, cùng với mục đích và thành quả của sự tu tập. Ngài dạy chúng ta phương cách phụ thuộc vào chính mình là thông qua thiền định và đây là con đường trực tiếp đến sự tự lực vững chắc. Đưa tâm vào trong sự tĩnh lặng, ở bất kỳ mức độ nào, làm tăng thêm lòng tự tin và niềm tin ngày càng cao - mà không phải hỏi ai khác về nó. Bạn sẽ biết từ bên trong chính mình. Điều này được gọi là paccata.m or sandi.t.thiko. Kiến thức tốt hay xấu, những gì cần khắc phục, loại bỏ hoặc phát triển, sẽ nảy sinh trong tâm. Điều này sẽ được hiểu bởi chính mình và cho chính mình, vì tâm ngày càng vững chắc hơn.

(Paccatta.m veditabbo vi~n~nuuhi: Thập phần Giáo pháp (tính Tam Tạng và Sớ Giải) hay Cửu phần Giáo pháp này là pháp mà kẻ trí, kẻ thiện phàm phu, Chư Vị Thánh Nhân đáng để tự mình liễu ngộ.)

(Sandi.t.thiko: Cửu phần Giáo Pháp (4 Ðạo, 4 Quả và Níết-bàn) không phải là những Pháp để đi đến và nghe. Giáo pháp này phải được tự liễu tri và tự thấy.)

Mức độ tập trung, một khi đạt được, đã đủ để tạo thành một nền tảng cho tâm, một ngôi nhà mà tâm có thể tìm thấy nơi trú ẩn và bình yên. Ngay bây giờ khi chúng ta suy nghĩ quá nhiều đến nỗi chúng ta cảm thấy yếu lòng và mệt mỏi, chúng ta nên hướng nội và thiền định. Tâm sau đó có thể nghỉ ngơi và lắng đi tất cả các mối bận tâm của nó, tìm thấy sự bình yên và tĩnh lặng. Điều này được gọi là đi vào bên trong để nương tựa, để tìm một nơi nghỉ ngơi thoải mái và dễ dàng. Đây là một cấp độ của sự nương tựa cho tâm.

Những bước tiếp theo, mặc dù hành giả vẫn quan tâm đến định, tiến tới các khía cạnh tinh tế và tinh khiết hơn của tâm. Các mức độ tập trung nhất thời, sự tập trung tăng lên và sự tập trung đạt được [5] cho thấy sự tinh luyện của định. Điều này định đạt đến đỉnh điểm trong sự tập trung, và trên mức độ đó thì định không còn chỗ để vượt lên.

Một khi tâm có một mức độ tĩnh lặng, theo mức độ đạt được định, nó vẫn tĩnh lặng và tinh khiết. Tuy nhiên, nếu không tu tập chánh niệm và tuệ [6], tâm sẽ chỉ ở mức độ đó , thiếu căn bản trí tuệ để nhổ bỏ phiền não. [7] Nếu chúng ta so sánh các phiền não với một cái cây, mặc dù chúng ta có thể đã cắt tỉa các nhánh, thân chính vẫn không bị cắt và vẫn có khả năng cho ra các nhánh mới.

Đây là lý do tại sao chúng ta được dạy tìm hiểu phương cách của tuệ. Tuệ là một trí thông minh sắc sảo và khéo léo. Nó có thể điều tra và theo dõi thông qua mà không có bất kỳ giới hạn. Đức Phật đã mô tả tuệ và tri kiến - thậm chí còn tinh tế hơn tuệ - trong bài Kinh Chuyển pháp luân. Hãy lắng nghe:

"Nyaa.na.m udapaadi, panyaa udapaadi, vijjaa udapaadi, aaloko udapaadi."

"Tri Kiến phát sanh, trí tuệ phát sanh, tri kiến cao hơn phát sanh, ánh sáng phát sanh."

Tri kiến hay Minh (trí tuệ) về cơ bản đề cập đến Tam minh. [8] Trí tuệ phát sanh, và, với sự tinh luyện hơn, Tri kiến cao hơn phát sanh - phát sinh ngay từ chính tâm này. Tuệ loại bỏ những phiền não bao trùm tâm, trong khi định chỉ đơn giản là có xu hướng để những phiền não nằm ngủ yên trong tâm. Nó chưa có khả năng diệt trừ bất kỳ phiền não nào. Sự dính mắc của tâm, nhưng tâm vẫn không thay đổi mặc dù nó yếu đi vì bị lôi cuốn bởi nhiều thứ khác nhau. Một khi tâm được nhu thuận và an lạc, tuệ có thể trở thành vũ khí quan trọng của chính nó như là vũ khí quan trọng đánh xuống và nhổ bật tất cả những phiền não khác nhau trong tâm, từng bước một.

"Samaadhi-paribhaavitaa panyaa mahapphalaa hoti mahaanisa.msaa."

Ở đó! "Tuệ một khi được hỗ trợ và nuôi dưỡng trong định, là một thành quả lớn và lợi thế lớn. "Sự thẩm định trở nên tinh xảo, sự quán sát nhanh nhẹn và dũng cảm, để nó có thể cắt bỏ phiền não.

"Panyaa-paribhaavita.m citta.m sammadeva aasavehi vimuccati."

"Tâm được bồi dưỡng với trí tuệ dẫn đến sự giải thoát ra khỏi những cấu uế."

Hãy lắng nghe điều này! Chỉ có tuệ mới có thể nhổ bật cấu uế; không quan trọng là thô, trung bình hay vi tế, không có cấu uế nào vượt ra ngoài phạm vi của tuệ. Đây là một nguyên tắc chính đáng đảm bảo chất lượng và giá trị tu tập của chúng ta, đó là loại bỏ hoàn toàn các cấu uế từ tâm. Đó là cùng một phương thức tu tập mà Đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài đã toàn thành trước chúng ta.

Thật vậy, định và tuệ không thể tách rời nhau. Dù tính cách và khuynh hướng của chúng ta có thể là gì, định luôn cần thiết như một nhiệm vụ làm thanh thản cho tâm. Tâm thư giãn tách khỏi, bằng cách làm tĩnh lặng những suy nghĩ và mối bận tâm của nó trong định. Ngay cả công việc trên thế giới cũng cần phải có thời gian nghỉ ngơi và sự hồi phục - việc làm mà không có sự nghỉ ngơi là không thể. Điều này chắc chắn có thể sử dụng hết thời gian làm việc, nhưng, cũng giống như việc ăn uống hết thức ăn và số tiền cần thiết để mua thực phẩm đó, điều cần thiết là cơ thể đã tái tạo sức sống để tiếp tục công việc. Nghỉ ngơi và ngủ có thể lãng phí thời gian, nhưng, một lần nữa, điều đó cung cấp cho thể tạng sức mạnh mới để hoàn thành nhiệm vụ và công việc của mình. Nếu không nó sẽ không thể tiếp tục.

Việc sử dụng thời gian và vật chất này để cung cấp và tăng cường cơ thể chắc chắn không để bị lãng phí. Thay vào đó, chúng hữu ích như nhiên liệu cho một chiếc xe, sẽ không đi đến bất cứ nơi nào mà không có nhiên liệu. Định và tuệ liên hệ với nhau. Tâm cần thời gian để tĩnh lặng và an lạc trong định, và sau khi nghỉ ngơi, tâm có thể tiếp tục quán sát bằng chánh niệm và tuệ phù hợp với khả năng của mình.

Thuật ngữ Tuệ này được mô tả một cái gì đó rất tinh tế và phạm vi rộng, để phù hợp với tính cách và xu hướng của một người khi hành xử. Bất kỳ phương pháp nào chúng ta sử dụng để thẩm xét vì mục đích nhổ bỏ gốc rễ các phiền não đều được gọi là chánh trí.

Không nhất thiết luôn luôn phải đi tìm kiếm và đọc kinh điển để biết cách đối phó với các phiền não; và để nó trở thành 'Giáo Pháp - Chân Lý'. Những kinh sách này được trích ra từ tâm đó là Giáo Pháp-Chân Lý, đã thực sự làm công việc nhổ bỏ gốc rễ của phiền não và thấy rõ kết quả. Chỉ sau đó được viết ra trong kinh điển. Vì vậy, đây không phải là trường hợp các kinh điển hình thành trước Chân Đế - đó là phải thực sự tu tập.

Đức Phật là người đầu tiên tu tập và vì vậy không có kinh sách nào đã được viết ra để Ngài thực hành. Khi Ngài dạy các đệ tử của mình về Thánh Đế, Ngài đã không viết ra trong các văn bản trên lá bối. Ngài dạy họ bằng lời nói, và rồi các môn đệ của Ngài tự mình thực hiện Giáo huấn qua lời nói. Các Ngài đã học những giáo pháp ở đâu? - Từ thực tế trong tâm các Ngài, mà các Ngài đã thấy rõ kết quả của việc tu tập của chính mình.

Chính vì lý do này mà các phương pháp và cách tiếp cận của chánh niệm và tuệ phụ thuộc chủ yếu vào từng cá nhân. Mỗi người trong chúng ta cần suy nghĩ, kiểm tra, quán sát và đưa ra các phương pháp bằng trí thông minh và khả năng của mình, theo từng trường hợp. Do đó, không cần phải luôn quay trở lại để lấy lại thẩm quyền kinh điển với các câu hỏi như: "Tôi đã tự nghĩ ra điều này để khỏi phải đối diện với những phiền não." Cách suy nghĩ này không phù hợp với các nguyên tắc của Gia Pháp và không thể được gọi là chánh trí. Khi những điều chúng ta nhớ từ kinh điển không thể được hiện thực hóa trong việc loại bỏ tâm của chúng ta về bất kỳ phiền não nào thì điều này cũng vậy, đối với chúng ta, đó không phải là chánh trí. Nó có thể là sự khôn ngoan đúng đắn trong kinh điểm nhưng nó sai ở cách nó được sử dụng.

Giáo pháp trong kinh điển giải thích chỉ ở một mức độ hạn chế. Không thực sự rộng rãi. Nếu chúng ta so sánh với một loại thuốc, thì đó là một phương thuốc chung không đặc biệt không phải là nhằm vào một căn bệnh cụ thể. Việc chúng ta tích hợp và xây dựng một phương pháp cụ thể có khả năng đối phó với từng ô nhiễm cụ thể được gọi là y học. Đó là một phương thuốc nhằm mục đích nhổ bật gốc rễ của phiền não nào đó. Đây là lý do tại sao những người đang tu tập thành công theo cách tuệ của Phật pháp, có chánh niệm và tuệ đồng hành mọi lúc mọi nơi.

Ngài Acharn Mun từng nói Ngài "nghe Pháp ngày và đêm". Chỉ cần nghĩ về điều đó! Mọi thứ liên tục tiếp xúc với các giác quan của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếu, đụng ở mọi lúc. Nếu tri kiến về sự tiếp xúc này không xuất hiện ở trong tâm, đang chờ đợi với sự thừa nhận, thì nó xảy ra ở đâu nữa? Nó là gì mà thừa nhận? Sự nhận thức của tâm cũng khuấy động chánh niệm và tuệ, phải đến để thẩm nghiệm tình trạng tâm đang diễn ra với sự xem xét kỹ lưỡng, phù hợp với nguyên nhân và kết quả. Nó thẩm nghiệm sự tiếp xúc và khi biết, nó có thể rút lui hoặc cho đi. Đây là những gì được gọi là, 'nghe Pháp ngày đêm', lắng nghe Giáo pháp theo các nguyên tắc nguyên thủy của tự nhiên. Các phiền não là nguyên tắc tự nhiên đồng thời với tâm. Phật pháp, với giới, định và tuệ là những nguyên tắc tự nhiên trong tâm. Tất cả phụ thuộc vào cách chúng ta mang chúng ra để sử dụng trong cuộc thẩm nghiệm của chúng ta; sử dụng chúng để tận dụng tối đa theo khả năng của chánh niệm và tuệ, đó là công cụ lý tưởng để sử dụng.

Về thân. Hãy lắng nghe! *Mười tám giới (dhàtu), ngũ uẩn (khandha), tạo thành thân thể. Đức Phật đã có thân và tất cả các đệ tử của Ngài đã có thân. Ở một giai đoạn họ đã nắm giữ và dính mắc với ngũ uẩn, giống như chúng ta bây giờ. Những phiền não như vậy đối với các Ngài như bây giờ đối với chúng ta. Nhưng bằng cách nắm bắt và dính mắc vào, chúng ta tạo nên các điều kiện và nguyên nhân cho sự tích tụ phiền não trong tâm.

(Mười tám giới (dhàtu)là hình thức triển khai của sáu giới, gồm có sáu căn, sáu trần và sáu thức (nhãn thức, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và ý thức).

(Ngũ uẩn(khandha) là Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn.)

Đức Phật và các Thánh Arahant đệ tử của Ngài trước đây đã có phiền não — giống như chúng ta bây giờ —làm cách nào các Ngài có thể diệt tận gốc chúng? Thân tứ đại giống nhau, năm uẩn như nhau, nhưng các Ngài có thể giải thoát sự dính mắt của các Ngài trong khi chúng ta không thể. Tại sao? Chúng ta dường như không thể hiểu, nhưng làm thế nào mà các Ngài có thể đạt được sự nhận thức thấu đáo về Pháp? Tại sao chúng ta cũng không thể nhận thức thấu đáo? Tâm thì hiện diện, và chánh niệm và trí tuệ có thể được xây dựng trong từng khía cạnh, theo bất kỳ góc độ nào chúng ta muốn đưa lên để thẩm nghiệm.

Thân này, tồn tại ngay với chúng ta ở đây bây giờ, là một cái gì đó có thể được biết và hiểu. Khi chúng ta nói rằng tâm không thể phụ thuộc vào chính nó, tất cả những gì nó xuất hiện là nó cần phải phụ thuộc vào thân. Hơn nữa, nó không chỉ dựa vào các uẩn mà còn giữ chúng như là chính mình. Ở đây! Chúng ta phụ thuộc vào ngũ uẩn và tự hào chúng là Ta. Thế còn cái đó thì sao? Ngay cả với một số giới hạn hổ thẹn, chắc chắn chúng phải bị giữ bởi vì sự thiếu hiểu biết, và không có bất kỳ khả năng buông bỏ nào. Vì vậy, hoàn toàn chính xác khi nói rằng chúng ta không biết xấu hổ và chúng ta cần phải thừa nhận sự ngu ngốc của mình. Từ đây, chúng ta phải nỗ lực phát triển sự thông minh sẽ nhìn thấy những điều này và từ bỏ chúng thông qua sức mạnh của những nỗ lực của chúng ta.

Vì vậy, đầu tiên, chúng ta hãy nhìn thẳng vào hiện thực. Những điều này tuân theo các nguyên tắc tự nhiên và đó là như chúng là, trong khi chúng ta nỗ lực để kéo chúng vào như là cái bản ngã. Bây giờ điều đó sẽ gây ra vấn đề bởi vì nó đi ngược lại sự chân thật của mọi thứ. Để phù hợp với sự chân thật bạn cần phải thẩm nghiệm để thấy y theo sự chân thật về chúng. Liên tục thẩm nghiệm và tiếp tục điều tra cho đến khi bạn có thể hiểu. Một khi bạn hiểu, bạn sẽ không phải ra lệnh cho tâm buông bỏ. Mà nó sẽ tự đi vì những thứ này độc hại và có hại cho chúng ta, do sự dính mắc của chính chúng ta. Chắc chắn không có lợi ích trong sự dính mắc này. Nếu có bất kỳ công đức hay phước báu nào, Đức Phật sẽ dạy chúng ta nắm lấy - nhưng sau đó, lời khuyên như vậy sẽ không cần thiết vì tâm tự nó đã sẵn sàng tham dự vào. Sự dính mắc đó thì thật sự là cấu uế và có hại.

Mặc dù những thứ đó có thể gây nguy hiểm cho chúng ta, chúng ta vẫn nắm bắt và ôm chúng vào người. Chúng ta giữ chúng bằng cách đưa ra các giả định rằng, tôi như thế này, tôi như thế; họ là tôi; họ là của tôi. Rắc rối nảy phát sinh ngay tại đó với những giả định và quan niệm dựa trên ảo tưởng.

Không nguyên tố nào trong các uẩn này có bất kỳ ý nghĩa trong tự chúng. Chúng tồn tại, trong thực tế, giống như những cây và những núi và như thế. Chúng ta biết rõ nhiều khía cạnh khác nhau của chúng và điều này làm cho nó trở thành nỗi lo âu trong tâm và phải đối phó với nó. Một khi chết, chúng ta không thể nhận thức chúng, điều đó cho thấy rằng tâm đang trong tình trạng hỗn loạn. Nếu chúng ta ở đây, không có hạnh phúc; nếu chúng ta đi, sẽ không có sự hài lòng; nếu chúng ta nắm giữ, sẽ không có an lạc. Và điều này cứ lặp đi lặp lại. Làm thế nào sân hận và bực bội này có thể xảy ra.

Tâm này hoàn toàn tràn đầy ảo tưởng. Bất cứ khía cạnh nào nó phơi bày, không có gì ngoài ảo tưởng và các dính mắc có hại. Chúng ta than phiền rằng, "tâm không thể phụ thuộc vào chính nó" và vì vậy phải tìm kiếm và bám vào thứ này hay thứ kia. Sự quán sát của chúng ta thông qua trí tuệ được thực hiện để chúng ta có thể hiểu toàn bộ tình huống này. Sau đó, chúng ta có thể bỏ nó qua một bên, đẩy nó ra, thoát khỏi phiền não và dần dần đạt được sự tự lực.

Chúng ta ghi nhận những thứ khác một cái nhìn đầy đủ hơn và có thể đạt kết quả để hiểu chúng. Chúng ta hãy nhìn vào toà cao ốc, nhà cửa, phụ nữ, đàn ông, động vật và những thứ vật chất. Chúng ta có thể biết liệu chúng tốt hay xấu, có giá trị hay không, có đáng giữ hay không — nhưng tại sao chúng ta không thể nhận ra điều này về cơ thể của chúng ta? Không chỉ chúng ta không hiểu, mà chúng ta còn yêu và nắm bắt nó trong sự dính mắc. Chúng ta sẽ không dám yêu hay giữ những thứ bên ngoài theo cùng một cách, đặc biệt là nếu chúng ta biết chúng không có gì tốt. Chúng ta sẽ không làm bất cứ điều gì với chúng. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta sẽ lấy tất cả — cái tốt với cái xấu. Người ta có thể nói gì? Điều này là điều chúng ta thể hiện sự ngu ngốc của mình thật sự. Đôi mắt này trong tâm chúng ta nhìn thấy cơ thể như thế nào, tâm chúng ta biết, nhưng tất cả đều ở mức độ hời hợt của những người bình thường. Do đó, nó tiếp tục, theo một cách bướng bỉnh, không ngừng nghỉ mà không có kiến thức thực sự, theo cách hiểu thông thường của trần tục. Đây thực sự là cách phổ biến của vô minh, loại ảo tưởng thông thường trong vòng tròn kiến thức. Nó không phù hợp với chân đế, đó là lý do tại sao chúng ta phải tìm cách đưa chân đế vào tâm; vì đây là trí tuệ Một khi trí tuệ ở đó, chúng ta sẽ nhận ra chân đế — không còn tiềm ẩn — về bản thân chúng ta kết hợp trong cơ thể vật lý này.

Hãy xem xét cẩn thận. Cái thân này không lớn lắm: chiều cao chừng một sải (1,82 m), chiều ngang chừng 44 cm và chiều dầy chỉ một gang tay. Chúng ta nên có thể nhìn tất cả mọi thứ - ở bên ngoài chỉ cần một chút thời gian. Ở bên trong, nhìn sâu với sự cứu xét thành tâm, theo trạng thái hiện tại và các điều kiện để giải thể cuối cùng của nó.Nó không thực sự đi đâu cả; nó không làm gì ngoài việc hướng đến sự hủy diệt và tái sanh trở lại với các yếu tố ban đầu của nó. Và đó là tất cả. Dùng Tuệ thực hiện một tầm hiểu biết sâu sắc và chân thành về Chân Lý này. Khi Chân Lý đi thẳng vào tâm theo cách vượt ngoài tranh chấp, sự nắm bắt và dính mắc sẽ ngay lập tức rút lại. Nếu Chân lý chưa được thâm nhập, thì hãy thẩm nghiệm bằng trí tuệ cho đến khi Chân Lý thâm nhập.

Trí tuệ này không đến từ bất cứ ai khác. Cái nhìn sâu sắc sự hiểu biết sâu sắc đi vào bên trong cơ thể — điều đó đúng với chúng ta ở đây —là một cái gì đó phát sinh từ cuộc quan sát của riêng bạn, sự hiểu biết của riêng bạn. Khi sự hiểu biết đó hoàn thành, bạn sẽ hoàn toàn buông tay. Bạn là người đang nắm giữ và không ai có thể buông bỏ cho bạn mà là bạn tự kiểm tra và tự giải thoát.

Chỉ cần nhìn vào thân như một cái gì đó để dựa vào và trụ lại. Nếu, chúng ta vô minh và thiếu sự khôn ngoan, bạn xem nó là chính mình hoặc thuộc của mình, nó sẽ khiến bạn đau khổ vô tận. Điều này đặc biệt trong giây phút cuối cùng của các uẩn tan rã. Những lo lắng và hối tiếc, tình yêu và sự dính mắc của bạn, tất cả sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát. Thậm chí nhiều hơn 'một con diều bị đứt dây trên cao', bạn sẽ bị quay cuồng với gió.không ai biết bạn sẽ rơi vào cõi nào, và tất cả thứ này mặc dù sự thật là thân xác không có đáng giá so với những tình cảm và sự tiếc nuối như vậy. Nó hoàn toàn tạo thành từ những thứ đi đến sự tan rã.

Bạn có kiên trì chống lại chân lý không? Khi thời điểm đến, không thể phủ nhận rằng các uẩn phải tan rã. Đây là chân lý. Bạn có tự đặt mình chống lại nó bằng cách vẫn yêu thương và trân trọng, không muốn chúng yếu dần và tan rã? Chống lại với chân lý này, bạn sẽ chỉ dồn nén đau khổ cho chính mình, cho đến cuối cùng cũng không có lối thoát. Tất nhiên, trừ khi bạn nhanh chóng trở về với khoảnh khắc hiện tại để chiêm nghiệm thông qua trí tuệ. Nếu bạn thành công trong việc này thì bạn sẽ nhận được lợi ích lớn đó— Hạnh phúc cao thượng của Niết-bàn: "Nibbaana.m parama.m sukha.m!". Tuy nhiên, nếu bạn chống lại luật thiên nhiên, thì cũng có khả năng vào lúc đó bạn sẽ mất đi những năng lực và trí thông minh của mình.

Trí tuệ là một trạng thái của hệ thống vũ khí nghệ thuật nên thấu hiểu thông qua cuộc thẩm tra của bạn với chân lý. Sự giải thoát và buông bỏ [tất cả các dính mắc] trong sự phù hợp với chân lý, cả bây giờ trong khi bạn vẫn đang sống ở đây và tại thời điểm tan rã. Trí tuệ sau đó sẽ đánh giá rõ ràng tình hình hiện tại và tương lai - không gì có thể đặt ra vấn đề.

Niềm vui và nỗi đau vẫn còn bởi vì các uẩn vẫn còn chức năng. Những uẩn này sanh khởi trong sự phụ thuộc vào nhau. Và đó là tâm biết và chịu trách nhiệm. Tâm biết nhưng không nắm bắt. Bạn nên hiểu rằng có hai cách mà tâm có thể biết — hoặc biết trong tầm kiểm soát với chân lý hoặc bằng cách biết và nắm bắt.
Thọ uẩn[9] của bất kỳ loại nào hoặc cấp độ nào hiện diện với năm uẩn nhưng không có trong tâm thuần khiết. Các Vị Thánh Arahant không phải chịu đụng sự cảm xúc của cả uẩn và tâm, trong khi 'chúng ta rất nhiều' nắm giữ sự dính mắc để tạo thành vòng luân hồi.[10] Khi trạng thái của những lực đẩy của các uẩn khác nhau và lệch chúng ta đi theo; và khi nó chao đảo và rơi xuống chúng ta bị thất bại xáo trộn với nó. Đó là vì chúng ta phụ thuộc vào chúng. Chúng dẫn chúng ta chao đảo và chúng ta chao đảo, chúng ngã thì chúng ta cũng ngã. Khi chúng đứng chúng ta đứng thì chúng ta cũng có thể giữ vững đến một mức độ nhất định nhưng chúng không chịu đứng yên. Ngay cả khi chúng kiên trì và chưa đến lúc tan rã, chúng ta vẫn buồn về cái chết hơn chúng.

Do đó, điều cần thiết là chúng ta phải tìm hiểu, rõ ràng để thấy với tuệ, rằng những điều này chỉ là một cái gì đó để tuân theo. Ngày ... phút ... thời gian đều đặn tiêu thụ mọi thứ. Nếu chúng ta thấy cách thời gian và thiên nhiên ăn mòn, gặm nhấm những thứ này, chúng ta sẽ thấy rằng nó giống như một con chó gặm nhấm xương thịt. Không có sự khác biệt nào cả. Nó cứ gặm nhấm, cắn và xé cho đến khi không còn gì để ăn. Vì vậy, có sự ăn mòn [của các uẩn] theo cùng một cách. Chúng tiếp tục tan rã từng chút một, cho đến khi chúng đến điểm chân lý cuối cùng.

Cho dù chúng ta đang ngồi, đứng, đi, nằm hoặc ngủ ngon, thời gian tiếp tục ăn mòn, gặm nhấm. Tan rã, làm suy yếu và suy tàn. Do việc liên tục gặm nhấm và áp đảo. Vì vậy, bạn nghĩ rằng bạn có thể phản đối và ngăn chặn điều này? Không, điều này không dừng lại. Vì đó là quá trình [không thể tránh khỏi] của tự nhiên - một cái gì đó có tỷ lệ lớn. Giả định của chúng ta là sai, và những gì sai không phù hợp với những gì đúng và xác thực. Sự tan rã là khá đúng của tiến trình diễn biến; đó là theo nguyên tắc tự nhiên của chúng. Để chống lại bản chất thiết yếu của chúng là lỗi của tâm để cuối cùng phải đau khổ.

Bắt đầu ngay bây giờ với sự tìm hiểu toàn diện về những điều này. Khi thời gian cuối cùng cũng đến, sẽ không còn run rẩy vì quá trình xem xét kỹ lưỡng và hiểu biết của bạn đã hoàn tất và bạn sẽ biết rằng đây là cách không thể tránh khỏi. Không có lựa chọn nào khác.

Vì vậy, sau đó, hãy để mỗi thứ đi theo cách riêng của nó. Bất cứ điều gì xảy ra, hãy để nó xảy ra mà không cố gắng chống lại tính thực tế của nó. Cảm giác đau đớn đốt cháy cơ thể và nó dần trở nên giòn và 'quá liều'. Nó giảm dần cho đến khi nó vỡ ra và tan rã. Tuy nhiên,tâm được bao phủ bởi chánh niệm và trí tuệ sẽ không bị phá vỡ, sẽ không bị dập tắt và sẽ không 'chờ đợi'. Đó là bản tánh của chính nó, tự lực, không cần phụ thuộc vào bất cứ điều gì — và vô cùng thoải mái.

Tại đây là nơi chúng ta thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu, giá trị của nó đối với tâm. Đây là lý do tại sao các vị Thánh, bắt đầu với Đức Phật, dạy chánh niệm và trí tuệ là điểm chính — để chúng ta có thể giữ tâm , kéo tâm ra khỏi phiền não và giải thoát khỏi sự sợ hãi.

Những lời dạy của mỗi vị Phật giống như nhau. Điều này là do các nguyên tắc tự nhiên như nhau, và phiền não luôn giống nhau. Không có vị Phật nào dạy khác hoặc bất đồng ý với điều này. Tu tập là luôn luôn loại bỏ phiền não — dù lớn hay nhỏ — từ tâm. Điều này tuân theo các nguyên tắc cơ bản của thiên nhiên, mà tất cả các vị Phật đều dạy. Nếu chúng ta đi ra khỏi những nguyên tắc này, chúng ta sẽ trở thành trò cười của những phiền não.

Do vậy cần phải tìm hiểu. Không có vấn đề rộng hay hẹp — cho dù toàn bộ vũ trụ và các yếu tố thế gian. Có cái gì ở đó mà tâm có thể phụ thuộc và nương tựa không? Chú ý thuật ngữ 'nương tựa'. Ngay cả những thứ liên quan mật thiết với chính chúng ta cũng không an toàn. Ngoài thân của chúng ta, chúng ta không hy vọng tìm được nơi nương tựa trong bất cứ cái gì.

Ngay cả những vật liên quan chặt chẽ với chúng ta cũng không đáng tin cậy. Nếu chúng ta không thể nhận ra mối đe dọa mà chúng gây ra, thì ở nơi đâu chúng ta sẽ có thể thấy được? Đây là nơi nguy hiểm phải được nhìn thấy và tâm phải thoát ra khỏi sự nguy hiểm của chúng. Tiêu chuẩn đó trở nên rõ ràng trong phạm vi đầy đủ được gọi là:

'Attaa hi attano naatho': 'Chính ta là nơi nương tựa cho ta.'

Tâm không phụ thuộc vào bất cứ cái gì. 'Giới', 'định' hoặc 'tuệ' trong giai đoạn giải thoát cuối cùng, là những thuật ngữ không còn cần thiết. Tại sao một nơi nương tựa lại tìm thấy trong các vật dụng và phương tiện đã thực hiện thành công công việc của chúng là dọn sạch phiền não. Các vật dụng nên được đặt theo điều kiện của chúng. Một con dao để cắt rau hoặc gọt vỏ trái cây sau khi hoàn thành được đặt sang một bên chúng ta chỉ lấy thức ăn và ăn. Điều rõ ràng là chúng ta không ăn con dao.

Giới, định và tuệ là những dụng cụ để đối phó với phiền não. Khi phiền não được loại bỏ, mọi rắc rối cho tâm cũng biến mất. Trong khi cuộc sống vẫn còn những dụng cụ này có thể được sử dụng vì lợi ích của thế giới, phù hợp với các quan niệm thông thường. Tuy nhiên, chúng sẽ không cần thiết để tu chỉnh phiền não một lần nữa. Đặc biệt, vào thời điểm cuối cùng khi sự đi qua từ mười tám giới (dhàtu)* và ngũ uẩn (khandha) sẽ diễn ra, chắc chắn không cần bất cứ điều gì. Chánh niệm và trí tuệ không còn là vấn đề nữa và thân không có vấn đề gì, bởi vì tất cả các vấn đề trong tâm đã hoàn thành. Không có gì có thể gây ra mối quan tâm. Vì vậy, bạn nên tiến tới kết thúc vấn đề này, vì đây là lúc mọi lo lắng của bạn sẽ chấm dứt.

Nếu bạn vẫn còn những khó khăn — thì đó là rắc rối. Chúng ta nghe về những vấn đề liên quan đến đau khổ và khó khăn, liên quan đến sinh, lão, bệnh và tử. Chúng tiếp theo từ những gì chúng ta gọi là 'vấn đề'

Với sự kết thúc các rắc rồi mọi vấn đề đều chấm dứt. Thẩm tra và sự hiểu biết.Tất cả những điều tôi đã đề cập ở đây nằm trong thân hoặc tâm của chính bạn. Nghiên cứu chúng bằng chánh niệm và trí tuệ của bạn. Suy niệm thấu đáo ngày này qua ngày khác. Đừng tự mãn. Chánh niệm và tuệ không phải là thứ có thể mang vào để nấu và ăn, nhưng chúng có thể được mang vào để đối phó với những phiền não. Bằng cách sử dụng chúng theo cách này, việc loại bỏ có thể kéo dài cả ngày. Tuy nhiên, sự tự mãn sẽ chỉ khiến bạn chìm xuống— và chắc chắn không có gì để đạt được điều đó. Kết quả cuối cùng sẽ là khi bạn bị mắc kẹt ở một góc, bạn thậm chí sẽ không biết trí tuệ của mình đã biến mất ở đâu. Cuối cùng bạn sẽ đập đầu vào tường. Điều đó chắc chắn sẽ không làm được!

Chúng ta không phải là đại đệ tử của Đức Thế Tôn, Đức Phật, người đập đầu vào tường. Đức Phật đã không làm như vậy, và các vị Thánh Đệ Tử cũng không làm như vậy, những người mà chúng ta tôn kính, "Con đem hết lòng thành kính quy y Tăng". Tại sao chúng ta đi và đập đầu chúng ta theo cách này? Chúng ta phải cố gắng, dùng bất cứ phương tiện và chiến lược nào, để tìm con đường thoát ra. Cố gắng bằng hết tất cả khả năng của mình. Đạt đến giới hạn [hiện tại] khả năng của chúng ta, rồi sau đó là tất cả những gì chúng ta có thể quản lý. Dù chúng ta đạt đến tình trạng hay cấp độ nào, chúng ta chấp nhận nó — bởi vì đó là điều chúng ta có thể làm. Nhưng miễn là nó không vượt quá khả năng của chúng ta, chúng ta có thể cố gắng tiến xa hơn, đấu tranh, kéo mình theo và buộc phải vượt qua.

Chìm vào vòng luân hồi sinh tử tương tự như khi tàu bị lật úp và mọi thứ trên tàu rơi xuống. Con tàu, hàng hóa chìm cùng nhau và người chết. Chúng ta đi xuống với mười tám giới và ngũ uẩn thông qua ảo tưởng và vô minh. Thân đi xuống theo đúng bản chất của nó, nhưng tâm chúng ta chìm xuống vì sự ngu ngốc của chính mình. Bạn có chấp nhận điều đó không? Không có gì tốt về sự thất bại này. Tâm đi thẳng xuống vực sâu dưới sự ép buộc của si mê; và điều đó chắc chắn không tốt. Trong thực tế, nó rất tệ và không mong muốn. Vì lý do này mà chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta thường xuyên tìm lối thoát.

Tìm hiểu để thấy chân lý, và đặc biệt là chân lý về cảm giác đau đớn và khó chịu của thân và tâm. Điều này hết sức quan trọng. Tâm tiếp cận và nắm giữ quá nhiều đến nỗi nó trở thành bệnh tâm thần trên tất cả mọi thứ khác. Tìm hiểu để nhận ra rằng năm uẩn không phải là 'tôi': Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn là những điều kiện đặc biệt phụ thuộc lẫn nhau trong mười tám giới và ngũ uẩn. Tâm là một cái gì đó riêng biệt. Bằng cách phân tích và mổ xẻ thành công, sử dụng chánh niệm và tuệ của bạn, bạn sẽ đạt được sự an toàn ra khỏi mọi nguy hiểm.

Cái chết — cứ để nó đi theo con đường của nó. Tất cả mọi vật trên thế giới này đều chết, chúng đều có một cái chết vốn có. Làm thế nào bạn mong đợi chúng không thay đổi và bền bỉ — Khi đến thời gian chết, chúng phải chết . Không có gì có thể chế ngự và phủ nhận điều này. Ngay cả vị Thánh Arahants cũng phải chết; tuy nhiên với các Ngài, đó là sư khác biệt khi các Ngài viên tích mà không cần quan tâm và lo lắng. Đối với chúng ta, chúng ta lo lắng ngay giây phút trước khi cái chết đến — hoảng loạn và bám víu. Trong cái chết, sợ hãi và sự chiếm hữu tăng lên chồng chất thành mối đe doạ lớn hơn ngọn núi. Hãy cẩn thận đừng để điều đó xảy ra vói bạn. Hãy chắc chắn rằng bạn vượt qua những lo lắng như vậy.

Như tôi luôn nói, hãy chuẩn bị và đặt mình với khả năng — 'Thiện pháp'[11] (ý nghĩa) 'đủ để khéo léo và nhạy bén'. Đây là 'phước lành' của chúng ta.

"Kusalaa dhammaa akusalaa dhammaa... "

Bất cứ khi một bất thiện pháp sanh khởi— không khéo léo hoặc vô minh — hãy xóa bỏ nó bằng thiện pháp tinh xảo, đó là chánh niệm và tuệ của bạn

Đây là những gì được gọi là 'tụng kinh kusalaa cho chính mình', và đó là điều bạn phải làm cho chính mình. Tùy thuộc vào người khác để theo dõi các nhà sư để tụng kinh ... "kusalaa dhammaa" ... sau cái chết của bạn gây ra rất nhiều phiền phức và phiền phức. Một cái gì đó chúng ta không muốn..

Thiện pháp:" hãy chuẩn bị cho mình đủ sự khéo léo, đầy đủ và bao gồm tất cả, và sẽ không cần bất cứ điều gì khác. Bạn sẽ chết mà không bị hoảng loạn và không sợ hãi như một vị Phật'sugato'

Đó là tất cả

Sugato: là một trong 9 Ân đức Phật - Sugato - Đức Thiện Ngôn là Bậc thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng sinh.
Ghi Chú
1.
arom (Thai). See Glossary.
2.
"Atta hi attano natho, kohi natho paro siya?" (Kinh Pháp Cú - kệ ngôn 160)
"Hãy nương tựa chính mình, tựa nương ai khác được, khéo tu tập tự thân, được nơi nương khó được"?"

3.
precepts. See Glossary and Appendix.
4.
chuẩn bị định (parikamma).
5.
samadhi: khanika samadhi; upacara samadhi; appana samadhi. See Glossary.
6.
sati-panyaa.
7.
kilesa.
8.
Nhớ được kiếp quá khứ, biết về sanh tử của chúng sanh và kiến thức về sự tan rã của tất cả lậu hoặc
9.
vedanaa.
10.
va.t.ta cakka.
11.
Tụng theo quy định tại bất kỳ lễ hỏa táng theo truyền thống Thái Lan.