Thứ Hai, 23 tháng 1, 2017

Niềm Hạnh Phúc Của Sự Buông Xả - Ajahn Brahmavamso


NIỀM HẠNH PHÚC CỦA SỰ BUÔNG XẢ

Nguyên tác: THE BLISS OF LETTING GO
Tác giả: Ajahn Brahmavamso

Minh Hạnh dịch ngày 17/07/2005



Trong thế giới đạo Phật ngày hôm nay, có nhiều sự thảo luận trong số những hành giả về sự thích đáng của thiền (Jhana) (sẽ giải thích bên dưới). Câu hỏi thứ nhất thường được đưa ra là "Có phải trước tiên người ta chứng thiền rồi mới được giác ngộ hoàn toàn (Arahant), hay là có thể đạt tới mục tiêu tối thượng mà không cần có bất cứ kinh nghiệm thiền (Jhana) nào?"
Những người đặt câu hỏi này bản thân họ thường là chưa có kinh nghiệm thiền (Jhana). Thật là khó khăn để làm những gì cần thiết cho sự chứng nghiệm thiền, do đó hầu hết những người nêu câu hỏi này muốn được trả lời rằng thiền không phải là cốt yếu. Họ muốn người ta bảo rằng sự khiếm khuyết của họ không phải là chướng ngại. Họ muốn có một con đường nhanh chóng và dễ dàng đưa đến Niết Bàn. Những người như vậy sẽ dễ hài lòng và thậm chí đầy cảm hứng bởi một vị thầy là người đã nói với họ những gì họ muốn nghe một cách tùy tiện - rằng những trạng thái Jhana này là không cần thiết - và họ sẽ theo sự giảng dạy này bởi vì nó tiện lợi thích hợp. Rủi thay, chân lý thì ít khi thích hợp, và hiếm khi phù hợp với những gì chúng ta muốn nghe.
Mặt khác, một hành giả quen thuộc với các thiền (Jhanas) sẽ nhận diện được chúng như là những trạng thái an lạc của sự buông xả và chính là ở ngay nơi kinh nghiệm buông xả mà người ta hiểu biết sự thích đáng của các thiền.
Sơ thiền là kết qủa tự nhiên của sự buông xả sự dính líu với dục lạc (Kama sukha), có ý nói tất cả sự dính líu do duyên dục lạc, ngay cả chỉ là cảm giác dễ chịu, trong lãnh vực của năm căn môn bên ngoài (thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm). Trong sơ thiền, xuyên qua việc xóa bỏ bền bỉ và hoàn toàn tất cả sự thích thú trong năm căn này hành giả sẽ mất tất cả cảm giác của thân và năm căn môn bên ngoài biến mất. Họ trú hoàn toàn trong giác quan thứ sáu đó là tâm thanh tịnh và tĩnh mịch trong cái hạnh phúc tràn đầy của một nội tâm im lặng. Đức Phật gọi nó là "Hạnh phúc xả ly" hoặc là hạnh phúc buông xả.
Nhị thiền là kết quả tự nhiên của sự từ bỏ chuyển động rất vi tế của sự chú ý hướng về (tầm) và nắm chặt trên ( tứ) đối tượng tâm an lạc này. Khi "sự giao động" cuối cùng này của sự tác ý được buông xả, người ta kinh nghiệm an lạc hân hoan nhiều hơn của một nội tâm đầy tĩnh lặng (định - samatha), nơi mà tâm hoàn toàn chuyên nhất và bất động.
Tam thiền là kết quả tự nhiên của sự buông xả kích động vi tế của chi thiền hỷ và Tứ thiền là kết quả tự nhiên của sự buông xả chính chi thiền lạc, để mà có được tâm xả bất động và thâm sâu nhất.
Trong đạo Phật, kinh nghiệm, không phải sự suy đoán, và ngay cả sự tin tưởng ít mù quáng hơn, là tiêu chuẩn của trí tuệ. Hành giả chỉ không thấu hiểu sự tĩnh mịch, hỷ, lạc hoặc xả hoàn toàn có nghĩa gì cho tới khi họ đã trở thành quen thuộc với các thiền. Nhưng kinh nghiệm của các thiền, những giai đoạn buông xả này, cho người ta sự hiểu biết trực tiếp xuyên qua những danh pháp này, đặc biệt là lạc (Sukha) và khổ (Dukkha).
Tương tự như con nòng nọc đã ở trong nước cả đời nhưng lại không thể hiểu được nước bởi vì nó không biết gì khác hết. Thế rồi, khi nó lớn lên thành con ếch, ra khỏi mặt nước và ở trên đất khô, nó vừa biết tính chất của nước lẫn đường lối vượt lên trên.. Trong trường hợp ví von này, nước tiêu biểu cho sự khổ, và đất khô tiêu biểu cho Thiền (không phải Niết Bàn - con ếch vẫn còn giữ một chút nước trên da của nó ở trên đất khô!), và đường lối vượt lên trên tiêu biểu cho sự buông xả.
Theo cách này, sự hành thiền phơi bày ra con đường tới diệt khổ. Hành giả chứng thiền cuối cùng sẽ hỏi "Tại sao những thiền này lại hạnh phúc một cách sâu sắc? Họ sẽ biết được câu trả lời rành mạch cho họ --"Bởi vì chúng là giai đoạn buông xả trạng thái mà bây giờ họ thấy là hình thức vi tế của khổ đau!" Khi quen thuộc với thiền và hiểu rõ nguồn gốc của an lạc trong đó, người ta sẽ tự mình đến để thấy rằng tất cả lạc thú thế gian, tức là, thuộc 5 căn môn bên ngoài (bao gồm dục) là khổ. Sự dính mắc vào thân và những cảm giác mạo hiểm của nó sẽ bắt đầu biến dần. Người ta sẽ hiểu biết rõ ràng tại sao tất cả những Đấng giác ngộ đều độc thân. Kế đó, khi tiến lên những thiền cao hơn và quán sát tại sao mỗi bậc thiền càng tiến xa thì càng hoan hỷ hơn và sau cùng hiểu rằng chính là vì người ta buông xả những dính mắc tinh tế trong tâm, như là những dính mắc với hỷ, lạc và xả. Nó trở nên rõ ràng rằng ngay cả những thiền này vốn là những trạng thái tâm cao thượng nhất chỉ là những hình thức tinh tế của khổ, bởi vì khi buông xả chúng, lúc đó nhiều khổ hơn cũng hết. Người ta càng tiến cao hơn, thì khổ càng được buông xả nhiều hơn và xuyên qua quá trình tiến triển này thì khổ được nhận biết. Người ta không thể biết hoàn toàn chân lý về khổ và do vậy không thể biết tứ thánh đế của Đức Phật, ngoại trừ bằng sự buông xả khổ xuyên qua kinh nghiệm thiền.
Do vậy, thật kỳ lạ, một vài người gợi ý rằng việc hành thiền dẫn đến dính mắc. Thực hành buông xả ra sao, làm thế nào có thể dẫn đến dính mắc được? Thực vậy, Đức Phật lặp đi lặp lại nhiều lần rằng những thiền này không nên sợ, nhưng phải phát triển, và khi những thiền được miệt mài đều đặn chúng dẫn đến Sotapanna (Tu-Đà-Hườn), Sakadàgàmi (Tư-Đà-Hàm), Anagami (A-Na-Hàm), và Arahant (A La Hán), bốn giai đoạn giác ngộ (coi trong kinh Thanh Tịnh (Pasadika Sutta) của Trường Bộ kinh (Digha Nikaya).
Một khi sự giác ngộ hoàn toàn được chứng đắc và tất cả dính mắc được dứt bỏ, lúc đó sự buông xả trong thiền trở thành tự nhiên như chiếc lá từ trên cây rơi xuống đất. Thực vậy, khả năng buông xả hiện tại và kinh nghiệm thiền là thước đo sự hiểu biết như thực về pháp và sự không dính mắc theo sau đó.

Minh Hạnh dịch thuật ngày 17/07/2005

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét